Tư duy và thực tại

11:01 CH @ Thứ Hai - 12 Tháng Mười Một, 2007

Chương 1. Tư duy và Thực tại

Khái niệm về xã hội mở dựa trên sự thừa nhận rằng sự hiểu biết của chúng ta về thế giới là không hoàn hảo một cách cố hữu. Những người cho rằng mình nắm được chân lí cuối cùng là đưa ra một đòi hỏi sai, họ chỉ có thể thực thi nó bằng cách áp đặt quan điểm của mình lên những người khác quan điểm. Kết quả của sự ép buộc như vậy là một xã hội đóng, trong đó quyền tự do suy nghĩ và diễn đạt bị cấm đoán. Ngược lại, nếu chúng ta thừa nhận tính có thể sai lầm của mình, chúng ta có thể có được một sự hiểu biết tốt hơn về thực tế mà không bao giờ đạt tới kiến thức hoàn hảo. Hành động trên sự hiểu biết đó, chúng ta có thể tạo ra một xã hội mở ra cho sự cải thiện chẳng bao giờ kết thúc. Xã hội mở không đạt tới sự hoàn hảo, nhưng nó có phẩm chất to lớn về đảm bảo quyền tự do tư duy và ngôn luận và mang lại phạm vi rộng rãi cho thử nghiệm và sáng tạo.

Để giải thích khái niệm về xã hội mở, tôi phải bắt đầu với quan hệ giữa tư duy và thực tại, đặc biệt khi nó liên quan đến những chuyện xã hội. Tôi cần chứng tỏ cái gì là cái làm cho sự hiểu biết của chúng ta không hoàn hảo một cách cố hữu. Tri thức không vượt quá tầm hiểu biết của chúng ta, nhưng khi đến các tình thế trong đó chúng ta là những người tham gia tích cực chúng ta không thể đặt cơ sở cho quyết định của mình chỉ riêng trên tri thức. Tri thức liên quan đến các sự thực, nhưng các sự kiện mà các quyết định của chúng ta liên quan đến không phải là các sự thực. Chúng nằm trong tương lai và tuỳ thuộc vào các quyết định hiện tại của chúng ta. Ngay cả sau khi chúng đã xảy ra, chúng khác các sự thực tạo thành đối tượng chủ thể của khoa học tự nhiên bởi vì chúng bị ảnh hưởng của cái chúng ta tư duy về; đó là nguồn gốc của những khó khăn của chúng ta.

Mối quan hệ giữa tư duy và thực tại là một chủ đề làm các triết gia bận tâm từ khởi đầu của triết học, nhưng vẫn chưa được hiểu một cách thích đáng. Bản chất của các vấn đề triết học là nó không có các câu trả lời dứt khoát, không thể chối cãi được, hay, chính xác hơn, mỗi câu trả lời lại nêu ra những câu hỏi mới. Tôi không thể hi vọng làm tốt hơn một chút nào, nhưng tôi cảm thấy tôi có cái gì đó quan trọng để nói.

Điểm cốt lõi tôi muốn đưa ra là mối quan hệ giữa tư duy và thực tại mang tính phản thân (reflexive) - tức là, cái chúng ta nghĩ, có một cách tác động lên cái chúng ta nghĩ về. Hiển nhiên, điều này không đúng với mọi khía cạnh của thực tại. Các hiện tượng tự nhiên diễn tiến bất chấp cái chúng ta nghĩ. Chỉ trong lĩnh vực xã hội thì tính phản thân mới thích đáng, nhưng đó chính là chủ đề chúng ta quan tâm ở đây. Tôi sẽ thử chứng minh rằng tính phản thân đưa một yếu tố bất định cả vào sự hiểu biết của người tham gia lẫn vào các sự kiện mà họ tham gia vào. Tính phản thân không là nguồn bất định duy nhất, cả trong tư duy của chúng ta hay trong thực tại, nhưng khi nó xảy ra, nó tạo thành một nguồn bất định thêm vào.

Tôi bước vào thảo luận với sự bối rối. Các lí lẽ triết học thường có xu hướng chẳng bao giờ chấm dứt, và, đặc biệt, tính phản thân dựa vào một lí lẽ vòng vo: Sự hiểu biết của người tham gia là không hoàn hảo bởi vì sự hiểu biết không hoàn hảo của họ đưa một yếu tố không thể tiên đoán được vào tình thế mà họ tham gia. Tôi cũng có các khó khăn riêng trong đối phó với chủ đề. Một lần, vào đầu các năm 1960, tôi đã để ba năm khảo sát nó cho đến một hôm tôi đã chẳng hiểu nổi cái tôi viết ngày hôm trước và quyết định thôi. Bây giờ tôi qay trở lại cùng vũ đài đó. Tôi đã được củng cố bởi thành công của mình trong áp dụng khung khổ của tôi trong thế giới thực tế.


Lí thuyết Tương hợp về Chân lí

Để đạt được tri thức, cần phân biệt giữa tư duy và thực tại. Tri thức bao gồm các tuyên bố đúng và, theo lí thuyết tương hợp về chân lí, các tuyên bố là đúng khi, và chỉ khi, chúng tương ứng với các sự thực. Để có khả năng xác định liệu tuyên bố có đúng không, sự thực phải độc lập với các tuyên bố dẫn chiếu tới nó; phải có một sự tách bạch kín kẽ giữa các tuyên bố và các sự thực: các sự thực ở một bên, các tuyên bố ở bên kia. Các sự thực có thể dùng như tiêu chuẩn theo đó sự thật của các tuyên bố được đánh giá.
Không suy ra, tuy vậy, rằng các sự thực luôn tách rời và độc lập với các tuyên bố liên hệ với chúng. Tất cả cái được khẳng định là sự tách bạch là cần thiết cho thâu nhận tri thức. Đôi khi sự tách bạch cần thiết thịnh hành, lúc khác lại không; trong trường hợp sau, sự hiểu biết của người tham gia không đạt tới tri thức.

Trong các xã hội nguyên thuỷ, người dân không phân biệt giữa tư duy riêng của họ và thế giới mà những suy nghĩ đó liên quan tới. Họ tạo ra các niềm tin được coi như thực tại. Thí dụ, họ ban linh hồn cho các đối tượng và họ chấp nhận sự tồn tại của những linh hồn đó. Một khi sự phân biệt giữa suy nghĩ và thực tại được nhận ra, quan niệm này về thế giới có thể thấy là sai. Những tuyên bố đúng có thể được phân biệt với các tuyên bố sai và con đường cho phát triển tri thức mở ra. Thuyết vật linh và tôn giáo nguyên thuỷ mất tính hấp dẫn của chúng; triết học và khoa học hình thành.

Khi các triết gia bắt đầu thảo luận mối quan hệ giữa tư duy và thực tại, mối quan tâm chủ yếu của họ là xác lập bản chất và sự tồn tại của thực tế (bản thể học: ontology) và để giải thích làm sao biết được nó (nhận thức luận: epistemology). Điều này dẫn họ đến nghĩ dưới dạng quan hệ một chiều trong đó lí trí tìm kiếm tri thức một cách tích cực còn thực tại thì thụ động chờ để được khám phá. Cách nhìn này vào mối quan hệ được thành công của khoa học củng cố. Phương pháp khoa học đã làm hết sức mình để bảo vệ đối tượng chủ thể khỏi bị tư duy và hành động của nhà quan sát khoa học làm vấy bẩn.

Song quan hệ giữa suy nghĩ và thực tại không là con đường một chiều. Các tình thế, trong đó có người tham gia có tư duy, không nằm lì chờ được nghiên cứu; chúng được các quyết định của những người tham gia nhào nặn một cách tích cực.
Tất nhiên, có các sự kiện xảy ra độc lập với cái mà bất kể ai nghĩ; các hiện tượng này, như chuyển động của các hành tinh, tạo thành đối tượng chủ thể của khoa học tự nhiên. Ở đây tư duy đóng vai trò đơn giản, một chiều, được phân cho nó: Nó phục vụ cho sự hiểu biết thực tại. Các tuyên bố khoa học có thể hoặc có thể không tương ứng với các sự thực của thế giới vật lí, nhưng trong cả hai trường hợp các sự thực là tách rời khỏi và độc lập với các tuyên bố dẫn chiếu đến chúng. Đó là lí do tại sao các khoa học tự nhiên đã có thể tạo ra những kết quả gây ấn tượng đến vậy.

Các sự kiện xã hội lại khác, vì chúng có những người tham gia biết suy nghĩ. Ở đây quan hệ giữa tư duy và thực tại phức tạp hơn. Tư duy của chúng ta hướng dẫn chúng ta hành động, và hành động của chúng ta có một tác động lên cái gì xảy ra. Khi có nhiều người khác nhau, không thể đảm bảo rằng mọi người đối mặt với cùng tình huống sẽ nghĩ giống nhau. Kết quả là một sự thực, nhưng nó không đủ tư cách để được coi là tiêu chuẩn độc lập theo đó tính đúng đắn hay tính hợp lệ của tư duy của người tham gia có thể được đánh giá, bởi vì nó còn tuỳ thuộc vào những người tham gia suy nghĩ và làm cái gì. Thiếu một tiêu chuẩn độc lập, tư duy của người tham gia không có tư cách để được coi như tri thức. Ngay cho dù có một sự tương ứng giữa cái những người tham gia nghĩ và cái thực sự xảy ra, nó có thể xảy ra bởi tác động của các quyết định của những người tham gia; bởi vậy, sự tương ứng không cung cấp loại bằng chứng về tính đúng đắn của tuyên bố cái có thể nhận được nếu giả như các tuyên bố và các sự thực đúng là độc lập với nhau. Thay cho quan hệ một chiều cái là cơ sở của tri thức, tư duy đóng một vai trò kép.

Một mặt, những người tham gia có tư duy tìm cách hiểu tình huống trong đó họ tham gia. Tôi gọi điều này là chức năng (hàm số) thụ động hay nhận thức. Mặt khác, họ tham gia vào tình huống mà họ tìm cách hiểu. Tôi coi điều này là chức năng (hàm) tích cực hay tham gia. Thay cho con đường một chiều, có sự tương tác hai chiều giữa những người tham gia vào tình hình. Hai hàm số hoạt động theo chiều ngược nhau, và chúng có thể đi đến mâu thuẫn với nhau. Biến số độc lập của một hàm là biến số phụ thuộc của hàm kia. Nếu cả hai hàm đồng thời liên kết với cùng các biến số, một hàm có thể tước đoạt hàm kia một biến số độc lập. Sự can thiệp đưa một nhân tố bất định vào cả hai hàm số điều không xảy ra nếu giả như hai hàm số hoạt động độc lập với nhau. Đó là cái tôi gọi là tính phản thân (reflexivity). Tôi lấy từ đó từ ngữ văn tiếng Pháp, gọi một động từ là phản thân khi chủ thể và khách thể là như nhau, như trong je me lave (tôi [tự] tắm).


Lí thuyết Phản thân

Tính phản thân có thể phát biểu ở dạng hai hàm đệ qui:

x = f (y) hàm nhận thức [cognitive function]
y = ö (x) hàm tham gia [participating function]

ở đây x mô tả cái nhìn của người tham gia về tình hình y. Cả hai hàm có giá trị nào đó sao cho x không thể là đồng nhất với y. Ngoài ra, cả hai hàm bao gồm thời gian trôi đi, cái có thể được ghi lại bằng cách dùng kí hiệu xt1, x t2 và yt1, yt2.

Riêng mỗi hàm số có thể có một kết quả xác định: trong trường hợp hàm nhận thức, tình hình có thể xác định quan điểm của những người tham gia; trong trường hợp hàm tham gia, quan điểm của những người tham gia, chuyển thành hành động, có thể xác định kết quả. Nhưng cả hai hàm số đều không hoạt động trong sự cách li tuyệt vời. Biến số độc lập của một hàm – y trong trường hợp của f và x trong trường hợp của ö –là biến số phụ thuộc của hàm kia. Bằng kí hiệu,

yt2 = f [ö(yt1)] và
xt2 = ö [f(xt1)]

Chừng nào hai hàm số có một giá trị khác 1* và cả hai hàm đều hoạt động, cả quan điểm của người tham gia lẫn trạng thái thực sự của sự việc không còn như nhau với thời gian trôi đi và chẳng cái nào được xác định bởi cái xảy ra trước nó. Cả hai hàm tạo ra các kết quả bất định, và nhân tố bất định trong một hàm có thể quy cho sự phụ thuộc của nó vào hàm kia.

Đây, tất nhiên, là một trình bày giản lược. Hầu hết các tình huống có nhiều hơn một người tham gia, như vậy thay cho x đơn thuần chúng ta phải liệt kê x1,2,3, …n. Và bản thân tình hình chứa nhiều biến số bên cạnh các hành động của người tham gia đơn thuần, như thế công thức phải là

y = a,b, c, …ö(x1,2,3, …n).

Nhưng điều đó không làm thay đổi lí lẽ cơ bản: Khi hai hàm số đồng thời liên kết cùng các biến số, sự tương tác của chúng đưa một nhân tố bất định vào cả hai. Quan điểm của người tham gia không được xác định bởi tình hình vì tình hình tuỳ thuộc vào quan điểm của người tham gia, và tình hình không thể được xác định bởi các quyết định của người tham gia vì người tham gia hành động trên cơ sở tri thức không thoả đáng. Thiếu sự tương ứng một mặt giữa quan điểm của người tham gia và trạng thái thực sự của sự việc và mặt khác giữa các ý định của những người tham gia và kết quả thực sự.

Tính phản thân hoạt động ở một phạm vi khá hẹp. Thực tại bao gồm các lĩnh vực mênh mông không bị ảnh hưởng bởi tư duy của những người tham gia, và tư duy của người dân liên quan đến nhiều đối tượng khác với tình hình trong đó họ tham gia vào: Họ có thể mơ ước, theo đuổi những mộng tưởng, hoặc đắm chìm trong những suy tư triết lí hay khảo cứu khoa học. Hơn nữa, tính phản thân không phải là nguồn duy nhất của bất định, cả trong thực tế hay trong tư duy của người tham gia, nhưng trong phạm vi hẹp nó hoạt động, nó là một nguồn thêm của bất định. Phạm vi hẹp đó tình cờ là đặc biệt quan trọng đối với chúng ta như những người tham gia có tư duy, bởi vì đó là nơi chúng ta sống cuộc đời mình.


Người Tham gia Đối lại Người Quan sát

Đáng đối sánh vị trí của người tham gia với vị trí của nhà khoa học tự nhiên. Đây không phải là một so sánh thường được tiến hành, song trong trường hợp này nó sẽ làm sáng tỏ. Các nhà khoa học tự nhiên nghĩ về một vũ trụ độc lập với tư duy của họ. Các tuyên bố của họ thuộc về một vũ trụ, các sự thực mà họ dẫn chiếu tới thuộc một vũ trụ khác. Chỉ có tương ứng một chiều giữa các tuyên bố và các sự thực là khả dĩ.
Đó là đặc trưng mấu chốt làm cho các sự thực phù hợp để dùng như tiêu chuẩn mà tính đúng đắn hay hợp lệ của các tuyên bố có thể được đánh giá. Nó cũng làm cho các sự thực miễn khỏi bị thao túng bởi các tuyên bố về chúng. Nếu nhà khoa học muốn thao tác thực tế một cách thành công, đầu tiên phải thu được tri thức từ nó.
Không phải vậy trong trường hợp của những người tham gia có tư duy. Họ có thể thao túng thực tế trực tiếp hơn bằng cách đưa ra các tư tưởng và lí lẽ tác động đến các quyết định riêng của họ và của những người tham gia khác. Các tư tưởng này không cần tương ứng với các sự thực về tình hình; thật vậy, chúng không thể làm vậy vì thiếu sự tương ứng cái đặc trưng cho tư duy của người tham gia. Tuy nhiên, chúng sẽ tác động lên tình hình- dù, tính đến hiểu biết không hoàn hảo của họ, kết quả có thể khác với kì vọng. Có cơ chế phản hồi hai chiều làm cho cả quan điểm của người tham gia và diễn tiến thực sự của các sự kiện đều bị ảnh hưởng. Một quá trình làm thay đổi cả tư duy và thực tại được cho là quá trình lịch sử.


Một Quá trình Lịch sử

Cơ chế phản hồi hai chiều không nhất thiết gây ra một quá trình lịch sử. Nó đơn thuần chỉ có tiềm năng làm vậy. Có nhiều trường hợp trong đó kết quả không khác những kì vọng hoặc sự phân kì không kích một sự thay đổi về kì vọng của người tham gia. Nhưng hiển nhiên các trường hợp khởi động một quá trình động học là các trường hợp lí thú hơn.

Chìa khoá cho việc hiểu động học như vậy được thấy trong yếu tố phán xét hoặc thiên kiến mà người tham gia phải dùng cho các quyết định của mình. Chúng ta đã thấy họ không thể làm mà không đưa vào một thiên kiến như vậy. Đến lượt nó, sự khác nhau giữa kết quả và kì vọng có khả năng ảnh hưởng đến thiên kiến. Phản hồi có thể là dương hoặc âm. Một phản hồi dương sẽ tăng cường định kiến ban đầu, cái có thể lại tạo ra phản hồi dương hơn nữa, nhưng quá trình không thể tiếp tục vô hạn định bởi vì cuối cùng thiên kiến nhất thiết trở nên rõ rệt đến mức thực tại có lẽ không thể sống theo các kì vọng.

Những người tham gia khác nhau có các định kiến khác nhau, nhưng trong nhiều tình thế - đặc biệt trong các thị trường tài chính – có thể nói về một thiên kiến “thịnh hành”. Khởi đầu, kết quả có thể xác nhận tính hợp lệ của định kiến thịnh hành, nhưng khi thiên kiến thịnh hành tăng quá mức, khả năng của nó tác động lên diễn tiến của các sự kiện có thể không còn đủ để đảm bảo rằng kết quả củng cố kì vọng. Khi sự khác biệt giữa kết quả và kì vọng tăng lên, thiên kiến thịnh hành ngày càng khó duy trì. Nếu và khi những người tham gia nghi ngờ hoặc từ bỏ định kiến của họ, một quá trình tự tăng cường có thể được khởi động theo chiều ngược lại. Thiên kiến thịnh hành càng phụ thuộc vào quá trình tự hợp lệ hoá và sự khác biệt giữa kết quả và kì vọng càng lớn, thì xác suất để cho một sự đảo ngược như vậy xảy ra càng lớn. Tôi sẽ cho một số thí dụ về tính phản thân trong các thị trường tài chính ở Chương 3.

Quá trình phản thân lộ ra theo thời gian. Tại một thời điểm cho trước, người dân được hướng dẫn bởi một tập các kì vọng mà qua các quyết định của họ dẫn đến những kết quả nào đó; các kết quả có thể làm thay đổi kì vọng của người dân, cái có thể làm thay đổi tập các quyết định tiếp theo tạo ra các kết quả mới, vân vân, nhưng tương tác tốn thời gian.

Có thể lí lẽ rằng các hàm nhận thức và tham gia thực sự không can thiệp vào nhau bởi vì chúng được cách li khỏi nhau bởi thời gian trôi qua. Tại bất kể thời điểm nào thiên kiến của người tham gia là cho trước; chỉ có ở thời điểm kế tiếp nó mới có thể bị tác động bởi một kết quả bất ngờ.

Lí lẽ này không hợp lệ bởi sự thực là tư duy của người tham gia không giới hạn ở các sự kiện ở thế giới bên ngoài và sự thay đổi tư duy của họ không nhất thiết được kích bởi các sự kiện bên ngoài. Đặc biệt khi con người nghĩ về bản thân mình hoặc về nhau, hai hàm số hoạt động đồng thời. Hãy xét tuyên bố như “Anh yêu em” hay “Hắn là kẻ thù của tôi”. Các tuyên bố này tác động đến người mà chúng đề cập ngay khi nó được nói ra. Khi một người thay đổi tự nhận thức của mình, tác động còn tức thời hơn. Sự cách li do thời gian trôi là không có, và có một sự chập mạch thật giữa hai hàm số. Khi người dân thay đổi ý kiến của mình, họ cũng thay đổi ứng xử, và sự thay đổi không được xác định bởi hoàn cảnh bên ngoài.

Khi một sự thay đổi như vậy xảy ra, nó ảnh hưởng trực tiếp đến tư duy của người tham gia nhưng chỉ gián tiếp đến thế giới bên ngoài. Tác động của tính phản thân trong tạo hình tự-quan niệm, tự nhận thức của người tham gia, các giá trị của họ, và những kì vọng của họ là phổ biến tràn lan hơn nhiều so với ảnh hưởng của nó lên diễn tiến của các sự kiện. Ở mức độ lớn, cá tính và đặc điểm của con người được xây dựng nên một cách phản thân. Chuỗi ban đầu tự tăng cường nhưng cuối cùng tự thủ tiêu mà tôi mô tả ở trước xảy ra ít thường xuyên hơn, nhưng khi xảy ra nó có tầm quan trọng lịch sử.

Sự bất định thật trong cái nhìn về chính mình hoặc về người khác của người tham gia cũng đưa một yếu tố bất định vào tiến trình các sự kiện. Xét việc hôn nhân: Có hai người tham gia có tư duy, nhưng tư duy của họ không hướng tới thực tế là cái tách biệt và độc lập với cái họ nghĩ và cảm nhận. Ý nghĩ và cảm nghĩ của một người tác động lên ứng xử của người kia, và ngược lại. Cả cảm nghĩ và ứng xử có thể thay đổi khiến không thể nhận ra được nữa khi hôn nhân tiến triển.

Ngay cả khi tư duy hướng đến các sự kiện ở thế giới bên ngoài, các sự kiện đó không thực sự phải xảy ra vì tư duy của người tham gia thay đổi. Hãy xét các thị trường tài chính: cốt lõi của các quyết định đầu tư là dự tính, hoặc “chiết khấu”, tương lai. Nhưng tương lai là bất định bởi vì giá mà các nhà đầu tư sẵn lòng trả cho cổ phiếu hôm nay có thể ảnh hưởng đến vận may của công ti theo nhiều cách khác nhau. Nói cách khác, sự thay đổi về kì vọng hiện hành có thể ảnh hưởng đến tương lai mà họ chiết khấu. Điều này làm cho giá cả trên thị trường tài chính là bất định thật sự.

Không phải tất cả các hiện tượng xã hội có đủ tư cách là phản thân, nhưng hầu hết các quá trình lịch sử thì có. Thực vậy, có thể lí lẽ rằng chính tính phản thân là cái làm cho các sự kiện thực sự mang tính lịch sử. Có thể phân biệt giữa các sự kiện buồn tẻ, xảy ra hàng ngày, khi hai hàm số không có tương tác với nhau một cách đáng kể, và các sự kiện lịch sử, khi chúng có. Lấy một thí dụ: Lái xe đi làm là một sự kiện nhàm chán, nhưng phát biểu của Nikita Khrushchev trước Đại hội Hai mươi của Đảng Cộng sản Liên Xô là một sự kiện lịch sử. Một sự kiện lịch sử đích thực không chỉ làm thay đổi thế giới; nó cũng làm thay đổi hiểu biết về thế giới của chúng ta- và hiểu biết mới, đến lượt nó, có tác động mới và không thể tiên đoán trước lên tiến trình của các sự kiện.

Sự phân biệt giữa các sự kiện buồn tẻ và lịch sử, tất nhiên, mang tính tautology*, song tautology có thể soi sáng. Các Đại hội đảng ở Liên Xô đã là khá nhàm chán, là chuyện có thể dự đoán được, song phát biểu của Khruskchev trước Đại hội Hai mươi là khác. Bằng cách phơi bày và bác bỏ tội ác của Stalin, Khrushchev đã làm thay đổi cảm nhận của người dân, và ngay cả chế độ cộng sản đã không thay đổi tức thì, bài phát biểu đã có các hệ quả không thể lường trước: quan điểm của những người đi đầu của glasnost ba thập niên sau đã được định hình trong thời thanh niên của họ bởi sự tiết lộ của Khrushchev.


Tính Không Xác định

Cho dù có lẽ là một điểm hiển nhiên, cần nhấn mạnh rằng yếu tố bất định mà tôi nói đến không được tạo ra bởi một mình tính phản thân; tính phản thân phải đi cùng với sự hiểu biết không hoàn hảo. Nếu giả như do may mắn nào đó mà con người được phú cho tri thức hoàn hảo, thì tương tác giữa tư duy của họ và thế giới bên ngoài có thể được bỏ qua. Kết quả của các hành động của họ sẽ tương ứng hoàn hảo với các kì vọng của họ bởi vì trạng thái thật của thế giới được phản ánh một cách hoàn hảo trong các quan điểm của họ. Tương tự, nếu tư duy của người tham gia giả như được xác định hoàn toàn bởi hoàn cảnh bên ngoài hoặc xung động bên trong, yếu tố bất định sẽ được loại trừ. Trạng thái công việc này là không thực tế, thế mà nó lại được đề xuất một cách nghiêm túc. Karl Marx đã cho là các điều kiện vật chất của sản xuất quyết định thượng tầng kiến trúc tư tưởng; Sigmund Freud cho rằng ứng xử của con người được vô thức chế ngự; và lí thuyết kinh tế cổ điển dựa trên giả thiết về tri thức hoàn hảo. Trong mỗi trường hợp, sự thôi thúc là như nhau: để cho một giải thích khoa học về ứng xử của con người. Phù hợp với các tiêu chuẩn thịnh hành ở thế kỉ mười chín, sự giải thích phải là tất định để có thể được coi là khoa học.

Tính Phản thân trong Khung cảnh

Khái niệm phản thân căn bản đến nỗi khó có thể tin rằng tôi là người đầu tiên tìm ra nó. Thật vậy, không phải tôi. Phản thân chỉ là một cái nhãn mới cho tương tác hai chiều giữa tư duy và thực tại đã ăn sâu vào lương tri của chúng ta. Nếu nhìn ra ngoài địa hạt khoa học xã hội, chúng ta thấy nhận thức rộng rãi về tính phản thân. Lời sấm tiên tri Delphic là phản thân, các vở kịch Hi Lạp cũng vậy, theo nghĩa là các lời tiên tri được hợp lệ hoá bởi tác động mà chúng gây ra.

Ngay cả trong khoa học xã hội, đôi khi đã có sự thừa nhận: Machiavelli đã đưa một yếu tố bất định vào phân tích của mình và gọi nó là số phận; Robert Merton lưu ý đến các lời tiên tri tự thoả mãn và ảnh hưởng thịnh hành; và một khái niệm giống phản thân được Alfred Schutz đưa vào xã hội học dưới cái tên “tính liên chủ quan: intersubjectivity”. Các nhà xã hội học như Anthony Giddens đã dùng thuật ngữ tính phản thân theo nghĩa gần hệt như tôi dùng.

Mới đây hơn, cả một khoa học mới, lí thuyết hệ thống tiến hoá, đã phát triển để nghiên cứu tương tác hai chiều giữa thú săn mồi và con mồi, hoặc tổng quát hơn giữa người tham gia và môi trường. Người tham gia không nhất thiết là con người và ứng xử của nó không nhất thiết được chỉ dẫn bởi hiểu biết không hoàn hảo, nhưng mối quan hệ là giống nhau ở mức nó dính đến sự tương tác hai chiều. Lí thuyết hệ thống tiến hoá đã phát triển các thuật toán để nghiên cứu mối quan hệ. Lí thuyết trò chơi cũng biến thành tiến hoá. Nó khởi đầu bằng giả thiết về tính duy lí, nhưng giả thiết dần dần được bỏ đi và nghiên cứu ứng xử duy lí được thay bằng “ứng xử thích nghi”. Tính phản thân không còn xa lạ ngay cả với lí thuyết kinh tế.

Đây là những phát triển mới đây. Dễ quên rằng cho đến gần đây các nhà khoa học xã hội, đặc biệt các nhà kinh tế học, đã cất công xua đuổi tính phản thân khỏi chủ đề của họ. Vì sao lại như thế sẽ được thảo luận ở Chương 3.

Tôi bắt đầu tư duy bằng tính phản thân gần năm mươi năm trước. Có thể lí thú gợi lại tôi đã đến với ý tưởng thế nào. Đó là thông qua các chú thích của cuốn Open Society and its Enemies của Karl Popper. Các chú thích này đề cập vấn đề tự-dẫn chiếu. Tự-dẫn chiếu chỉ có họ xa với phản thân. Tự-dẫn chiếu là một tính chất của tuyên bố; nó hoàn toàn thuộc địa hạt của tư duy. Phản thân kết nối tư duy và thực tại; nó thuộc cả hai lĩnh vực. Nhưng hai khái niệm có cái gì đó chung: một yếu tố không xác định.

Sự thực rằng các tuyên bố có thể tác động đến chủ thể mà nó dẫn chiếu được xác lập đầu tiên bởi Epimenides người xứ Creta khi ông đưa ra nghịch lí kẻ nói dối. Những người Creta luôn nói dối, ông bảo, và nói thế ông đặt vấn đề về tính đúng đắn của tuyên bố của mình. Là một người Creta, nếu ý nghĩa của cái ông nói là đúng, thì tuyên bố của ông phải là sai; ngược lại, nếu tuyên bố của ông là đúng, thì ý nghĩa mà nó truyền đạt phải là sai.

Nghịch lí kẻ nói dối đã từ lâu được coi như một sự kì lạ trí tuệ và được bỏ qua bởi vì nó quấy rối sự theo đuổi chân lí mặt khác (vẫn) có kết quả. Chân lí đã được định nghĩa như sự tương ứng của tuyên bố với sự thực bên ngoài. Cái gọi là lí thuyết tương hợp về chân lí được chấp nhận rộng rãi ở đầu thế kỉ hai mươi. Đó là thời kì nghiên cứu về sự thực đem lại các kết quả đầy ấn tượng và khoa học được ngưỡng mộ rộng rãi.

Được thành công của khoa học khích lệ, Bertrand Russell lao vào xử trí nghịch lí kẻ nói dối. Giải pháp của ông đã là phân biệt hai loại tuyên bố: một lớp gồm những tuyên bố dẫn chiếu đến chính mình, và một lớp loại trừ các tuyên bố như vậy. Chỉ có các tuyên bố thuộc lớp sau có thể được coi là đúng thể thức theo nghĩa là có một giá trị chân lí xác định. Trong trường hợp các tuyên bố tự dẫn chiếu, có thể không có khả năng xác định liệu chúng đúng hay sai.

Các nhà thực chứng logic đã đưa lí lẽ của Bertrand Russell tới kết luận logic của nó và tuyên bố là những phát biểu, mà giá trị chân lí của nó không được xác định hoặc bởi sự thực thực nghiệm hay bằng hình thức logic của chúng, là vô nghĩa. Nên nhớ rằng, đó là thời kì khoa học đã cho các giải thích tất định đối với phạm vi ngày càng rộng của các hiện tượng trong khi triết học lại trở nên quá xa thực tế. Chủ nghĩa thực chứng logic là một giáo lí cấm siêu hình học và đề cao tri thức khoa học như hình thức duy nhất của sự hiểu biết xứng với cái tên đó. “Những người đã hiểu lí lẽ của tôi”, Ludwig Wittgenstein nói trong kết luận của cuốn Tractatus Logico-Phylosophicus của ông, “phải nhận ra rằng mọi thứ tôi đã nói trong cuốn sách đều là vô nghĩa”. Dường như con đường cho suy ngẫm siêu hình đã chấm dứt và chiến thắng hoàn toàn của tri thức tất định, dựa trên sự thực, là cái đặc trưng cho khoa học.

Tuy vậy, ngay sau đó, trào lưu rẽ hướng. Wittgenstein nhận ra rằng đánh giá của mình đã quá nghiêm khắc, và ông bắt tay vào nghiên cứu ngôn ngữ hàng ngày. Trong lúc đó, ngay cả khoa học tự nhiên đã trở nên ít tất định hơn. Nó đã gặp các ranh giới mà quá chúng thì không thể giữ những quan sát khỏi chủ thể của chúng. Các nhà khoa học tìm cách thấu hiểu ranh giới, đầu tiên với thuyết tương đối của Einstein, rồi với nguyên lí bất định của Heisenberg. Gần đây hơn, các nhà nghiên cứu dùng lí thuyết hệ thống tiến hoá đã bắt đầu khám phá các hiện tượng vật lí phức tạp mà diễn tiến của chúng không thể được xác định bằng các định luật có hiệu lực mãi mãi. Các sự kiện đi theo một quĩ đạo không đảo ngược được trong đó ngay cả những nhiễu loạn nhẹ được khuyếch đại với thời gian. Lí thuyết hỗn độn (chaos) được xây dựng trên nhận thức này và đã có khả năng làm sáng tỏ nhiều hiện tượng phức tạp, như thời tiết, mà trước đây trơ ra với nghiên cứu khoa học. Những tiến bộ này đã làm cho ý tưởng về một vũ trụ phụ thuộc vào quĩ đạo thay cho vũ trụ tất định, nơi các sự kiện đi theo một tiến trình đơn nhất, không thuận nghịch, có thể chấp nhận được hơn. Dần dần ý tưởng đã tìm được cách tới các khoa học xã hội, nơi nó thực sự thuộc về bởi vì nó đặc trưng cho quĩ đạo mà các hiện tượng phản thân đi theo.

Tôi bắt đầu áp dụng khái niệm phản thân để hiểu công việc xã hội, và đặc biệt trong các thị trường tài chính, vào đầu các năm 1960 trước khi lí thuyết hệ thống tiến hoá ra đời. Bằng cách đưa ra khái niệm, tôi đã hi vọng lật ngược chủ nghĩa thực chứng logic. Chủ nghĩa thực chứng logic coi các tuyên bố tự dẫn chiếu là vô nghĩa. Tôi cho rằng các tuyên bố mà giá trị chân lí của nó không xác định, còn xa mới vô nghĩa, thậm chí còn quan trọng hơn các tuyên bố mà giá trị chân lí của nó được biết. Những cái sau tạo thành tri thức: Chúng giúp chúng ta hiểu thế giới như nó là. Nhưng những cái trước – những biểu hiện của sự hiểu biết không hoàn hảo của chúng ta – giúp định hình thế giới trong đó chúng ta sống.

Tại thời điểm rút ra kết luận này, tôi đã coi nó là một sự thấu hiểu lớn. Khái niệm phản thân và tính bất định đi cùng với nó dường như ra mặt chống đối lẽ phải được thừa nhận rộng rãi. Ngay cả khi vật lí học đã từ bỏ quan điểm tất định, các khoa học xã hội nói chung và kinh tế học nói riêng vẫn cứ khăng khăng bám lấy nó.

Thời thế đã thay đổi đến thế nào! Chủ nghĩa thực chứng logic đã mất sự ủng hộ tới mức tôi cảm thấy như mình đánh một con ngựa đã chết. Lí thuyết hệ thống tiến hoá đã xâm nhập mạnh mẽ không chỉ vào các khoa học vật lí và sinh học mà cả các khoa học xã hội. Trong khi các kì vọng duy lí và lựa chọn duy lí vẫn còn mạnh, nhiều nhà kinh tế học đã từ bỏ giả thiết về tính duy lí và đã bắt đầu khai phá các con đường khả dĩ khác về xem xét ứng xử kinh tế.

Như ta có thể kì vọng ở một thế giới phản thân, những sự thay đổi đã không giới hạn ở tư duy; chúng cũng ảnh hưởng đến thực tại. Trong chừng mực nào đấy, máy tính đã phá vỡ sự tách biệt giữa tư duy và thực tại, bởi vì nội dung và các lệnh điều hành được chứa trong cùng thông điệp. Điều này đã làm nảy nở ra một cách mới để nhìn vào thế giới trong đó tư duy và thực tại tương tác với nhau thay cho tạo thành các phạm trù tách biệt. Nó cũng biểu lộ tầm quan trọng của thông tin. Nhiều khía cạnh của thực tại, như tăng trưởng hữu cơ, mà trước kia được diễn giải bằng năng lượng có thể được hiểu tốt hơn bằng thông tin. Các dạng chưa tồn tại trước đây của thông tin và truyền thông, (xử lí) ảnh máy tính, công nghệ sinh học, giải mã gen người, Internet, và các hình thức thực tế ảo đa dạng, đóng vai trò ngày càng tăng trong đời sống chúng ta.

Ý tưởng rằng thực tại bằng cách nào đó tách biệt và độc lập với tư duy đã trở nên lỗi thời. Sự thay đổi này trong nhận thức về thực tại đã được tăng tốc trong các năm gần đây đến điểm mà nó chẳng khác gì một cuộc cách mạng thực sự. Phản hồi và phản thân được thừa nhận như các hiện tượng sống thực. Phản thân có thể không được công nhận như một khái niệm, song đó không còn do nó mâu thuẫn với hiểu biết thịnh hành; đúng hơn, nó có thể bị bỏ qua vì nó đã trở nên quá hiển nhiên.

Sự biến đổi cách mạng này đã ập xuống mà tôi không được chuẩn bị. Điều đó có thể hiểu được: Đó là đặc trưng của các cuộc cách mạng mà tốc độ thay đổi vượt quá nhận thức của chúng ta. Giả như nếu tôi bắt đầu lại từ đầu, có lẽ tôi chẳng cảm thấy cần nhấn đi nhấn lại khái niệm phản thân và quan hệ của nó tới tự-dẫn chiếu. Nhưng tôi tin có cái gì đó có thể thu được từ cách tiếp cận của tôi: Ngày nay người ta có thể sẵn sàng coi tính phản thân là nghiễm nhiên, nhưng họ có thể không ý thức được đầy đủ về tất cả các hệ luỵ của nó. Và có thể tôi không phải là người duy nhất thấy khó để điều chỉnh với sự thay đổi triệt để về thái độ. Thực ra, đa số người dân có thể không nhận thức được là một sự biến đổi triệt để đã xảy ra- những người trẻ bởi vì họ ít hiểu biết về người ta đã nghĩ ra sao năm mươi năm trước, những người già bởi vì họ không điều chỉnh được tư duy của mình và do đó cảm thấy bối rối trước môi trường hiện tại.

Chúng ta quên rằng chủ nghĩa thực chứng logic đã rất có ảnh hưởng ban đầu ở thế kỉ này; nó đã thực sự ngăn cấm tính phản thân bằng cách tuyên bố rằng các phát biểu mà giá trị chân lí của nó không thể được xác định dứt khoát là vô nghĩa. Đáng nhớ điều này, bởi vì nó nhắc nhở chúng ta những giới hạn của sự hiểu biết của chúng ta đã được hiểu tồi đến thế nào. Chúng ta biết là chúng ta có thể sai lầm, thế mà chúng ta không hiểu vì sao. Chính sự thực rằng chúng ta là người tham gia là cái hạn chế năng lực của chúng ta với tư cách là các nhà quan sát. Chúng ta không thể tránh dựa vào lòng tin cái có thể tác động đến tính hiệu lực của riêng nó, và chúng ta không thể đạt được sự chắc chắn loại có thể có trong các lĩnh vực nơi chân lí có thể được xác lập trên cơ sở sự thực. Hãy xét cái chết và sự hấp hối: Chúng ta có thể nghiên cứu nó một cách khoa học, nhưng khi đến cái chết của chính chúng ta, khoa học không cho câu trả lời; chúng ta phải tự thu xếp lấy.

Có nhiều cách để hoà giải việc đồng thời là nhà quan sát và người tham gia, nhưng chẳng cách nào là hoàn toàn thoả mãn. Chủ nghĩa thực chứng logic đã làm điều này bằng cấm các tuyên bố tự-dẫn chiếu và làm thế nó đơn giản lảng tránh tình thế khó xử của một người tham gia có tư duy. Chủ nghĩa thực chứng logic đã chỉ đưa các tư tưởng Khai Sáng về lí trí với tư cách là cái gì đó tách rời khỏi thực tại đến kết luận logic của nó. “Tôi tư duy, cho nên tôi tồn tại”, Descartes nói. Tư tưởng Khai Sáng rằng lí trí có khả năng giải thích và tiên đoán thực tại vẫn hằn sâu trong cách suy nghĩ của chúng ta. Trong kinh tế học, thí dụ, nó được hiện thân ở lí thuyết cạnh tranh hoàn hảo và kì vọng duy lí, như chúng ta sẽ thấy, là cái cung cấp sự biện minh khoa học cho tín điều thịnh hành của thuyết thị trường chính thống (market fundamentalism). Các kì vọng không thể là duy lí khi chúng gắn với cái gì đó tuỳ thuộc vào chính nó. Khái niệm cân bằng trong kinh tế học dựa trên nhận thức lỗi thời về thực tại và lí trí như các phạm trù tách biệt.

Hiện thời, lưỡi sắc bén của mốt trí tuệ lại vung sang thái cực ngược lại: phản kiến trúc (deconstruction) thực tại thành các quan điểm chủ quan và định kiến của những người tham gia đã trở thành mốt trong các môn xã hội. Chính cơ sở trên đó các quan điểm khác nhau có thể được đánh giá - cụ thể là, chân lí khách quan - bị nghi ngờ. Tôi chẳng có mấy thiện cảm với những người tìm cách phản kiến trúc thực tại. Tôi coi điều này là một thái cực khác lầm lạc ngang nhau, và khái niệm phản thân phải giúp tôi nêu rõ vấn đề của mình.

Tính phản thân dựa trên sự thừa nhận rằng có một thực tại và chúng ta là một phần của thực tại ấy: Đó là vì sao hiểu biết của chúng ta lại không hoàn hảo một cách cố hữu. Thực tại là duy nhất và quan trọng khác thường. Nó không thể được rút gọn hoặc phân rã thành các quan điểm và niềm tin của những người tham gia, chính xác là bởi vì thiếu sự tương ứng giữa cái người ta nghĩ và cái thực sự xảy ra. Nói cách khác, thực tại là nhiều hơn các quan điểm của người tham gia.

Thiếu tương ứng cũng cản trở sự tiên đoán các sự kiện trên cơ sở những khái quát có giá trị phổ quát. Có một thực tại, dẫu cho không thể tiên đoán được. Điều này có thể khó được chấp nhận, nhưng vô ích, thậm chí hết sức nguy hiểm, đi từ chối nó – như bất kể người tham gia nào đã mất tiền ở các thị trường tài chính có thể xác nhận. Các thị trường hiếm khi làm vừa lòng các kì vọng, thế mà phán xử của chúng là đủ thực tế để gây đau khổ và mất mát – và chẳng có quyền kháng cáo.

Độc giả có thể thấy lạ là tôi đưa thị trường tài chính như một thí dụ của thực tại; đối với đa số người dân nó dường như không thực. Song điều đó chỉ chứng tỏ sự hiểu biết của chúng ta về thực tại bị méo mó. Chúng ta nghĩ về thực tại như cái gì đó độc lập với nhược điểm của con người, trong khi hiểu biết không hoàn hảo của chúng ta là một phần rất thật của thực tại. Thị trường tài chính phản ánh các quan điểm thiên lệch của những người tham gia; chúng đóng một vai trò quan trọng trong định hình diễn tiến các sự kiện. Diễn tiến các sự kiện không thể được hiểu đơn giản bằng nghiên cứu quan điểm của những người tham gia; chúng ta cũng phải khảo sát diễn tiến thực sự của các sự kiện khác các quan điểm đó ra sao. Khác đi chúng ta có thể bỏ sót việc tính đến sự khác biệt giữa các kì vọng và kết quả - và đó là một sự bóp méo đáng kể thực tại.

Tôi tìm cách hoà giải mâu thuẫn cố hữu về đồng thời là người tham gia và nhà quan sát bằng cách coi tính có thể sai của chúng ta như điểm xuất phát. Trình bày lại Descartes, tôi là một phần của thế giới tôi tìm cách hiểu, vì vậy sự hiểu biết của tôi là không hoàn hảo một cách cố hữu. Điều này áp dụng với hiệu lực đặc biệt đối với các khía cạnh của thực tại khi có những người tham gia có tư duy. Nó làm cho cả sự hiểu biết của chúng ta lẫn diễn tiến của các sự kiện không chắc chắn. Vì sự bất trắc không thể được loại bỏ, tốt hơn nếu chúng ta coi nó là điểm xuất phát của mình. Làm vậy không loại trừ việc suy ngẫm hoặc về bản chất của thực tại hoặc về bản chất của tri thức, nhưng nó tạo cơ sở vững chắc hơn cho hiểu biết thế giới trong đó chúng ta sống so với về riêng từng cái. Và nó sẽ dẫn đến khái niệm xã hội mở như một hình thức đáng mong muốn của tổ chức xã hội.

Trong khi chúng ta đã trở nên quen với phản thân như một hiện tượng, chúng ta vẫn chưa biết đánh giá các hệ luỵ của nó. Chúng ta phải thừa nhận rằng thực tại không phải là cái gì đó tách rời và độc lập với tư duy của chúng ta. Tri thức hoàn hảo là không thể đạt được, nhưng ngay cả với sự hiểu biết không hoàn hảo chúng ta vẫn có khả năng ảnh hưởng lên thế giới mà chúng ta sống. Chúng ta phải nhớ, tuy vậy, rằng tính có thể sai của chúng ta có khả năng tạo ra sự khác biệt giữa ý định và kết quả. Thay cho sự theo đuổi vô ích thiết kế hoàn hảo - bất luận ở dạng của chủ nghĩa cộng sản hay ở dạng thị trường có khuynh hướng dẫn tới cân bằng – chúng ta phải tự thoả mãn với cái tốt nhất kế đó (tốt thứ nhì): một xã hội tự mở ra cho sự thay đổi và cải thiện. Đó là khái niệm về xã hội mở.


Một Khái niệm Phản thân về Chân lí

Chủ nghĩa thực chứng logic tìm cách loại bỏ và coi các tuyên bố tự-dẫn chiếu là vô nghĩa. Sơ đồ rõ ràng rất phù hợp với một vũ trụ tách biệt và độc lập với các tuyên bố dẫn chiếu đến nó, nhưng rất không thích đáng cho sự hiểu biết thế giới của các tác nhân có tư duy. Đã luôn có khả năng tấn công lập trường thực chứng logic tại biên bằng cách vẽ ra các tuyên bố nào đó mà giá trị chân lí của nó là bất định – thí dụ, “Vua hiện thời của nước Pháp hói đầu”. Nhưng các tuyên bố như vậy hoặc vô lý hay được sắp đặt trước; cả hai cách, chúng ta có thể sống mà chẳng cần đến chúng. Ngược lại, các tuyên bố phản thân là không thể thiếu được cho sự hiểu biết đúng đắn công việc xã hội. Chúng ta không thể làm mà không có các tuyên bố phản thân bởi vì chúng ta không thể loại trừ các quyết định liên quan đến số phận chúng ta; và chúng ta không thể đi tới các quyết định đó mà không dựa vào các lí thuyết và những tiên đoán có thể ảnh hưởng đến đối tượng chủ thể mà chúng dẫn chiếu tới. Bỏ qua việc sử dụng các tuyên bố phản thân khi tất cả chúng ta đều dùng chúng, hoặc buộc chúng vào các phạm trù “đúng” và “sai”, là diễn giải sai vai trò của tư duy trong công việc của con người. Thay cho phân loại chúng chỉ như đúng hay sai, có thể hữu ích hơn để đưa ra một phạm trù thứ ba: các tuyên bố phản thân mà giá trị chân lí của nó tuỳ thuộc vào tác động của chúng.

Mọi tuyên bố về giá trị đều có đặc tính phản thân: “Sung sướng thay những người nghèo, vì thiên đường là của họ”. Nếu tin vào tuyên bố này, thì người nghèo thực sự có phước lành với khả năng để lờ đi những công việc khó nhọc của mình nhưng họ sẽ ít được thúc đẩy để thoát khỏi cảnh khổ cực của họ. Theo cùng cách, nếu người nghèo bị cho là có tội về sự khốn khó của riêng mình, thì họ chắc ít nhận được bất kể sự khuây khoả nào và sẽ có ít lí do để coi mình là có phước. Hầu hết những khái quát hoá về lịch sử và xã hội tương tự đều có đặc tính phản thân: “Những người vô sản trên thế giới chẳng có gì để mất ngoài xiềng xích của họ” hoặc “Lợi ích chung được phụng sự tốt nhất bằng cách để cho người dân theo đuổi lợi ích riêng của họ”. Có thể thích đáng để khẳng định rằng những tuyên bố như vậy không có giá trị chân lí xác định, nhưng thật sai lầm (và về mặt lịch sử đã rất nguy hiểm) để coi chúng như vô nghĩa. Ở mức độ chúng được tin, chúng tác động lên tình hình mà chúng dẫn chiếu đến.

Tôi không đòi hỏi rằng một phạm trù thứ ba về chân lí là không thể thiếu được để giải quyết các hiện tượng phản thân. Một sự phân biệt được sùng kính lâu đời giữa đúng và sai có thể là đủ, miễn là chúng ta thừa nhận rằng các tuyên bố không cần phải là đúng hay sai để là có nghĩa. Những tiên đoán liên quan đến các sự kiện đơn nhất là đúng hay sai phụ thuộc vào liệu chúng có xảy ra hay không. Chỉ khi đến các lí thuyết tiên đoán thì sự bất trắc gắn với tính phản thân nới có vai trò. Có lẽ được giải quyết tốt nhất ở mức các lí thuyết hơn là ở mức các tuyên bố. Điểm mấu chốt là trong các tình trạng phản thân sự thực không nhất thiết cung cấp một tiêu chuẩn độc lập theo đó tính đúng đắn hay hợp lệ của các lí thuyết có thể được đánh giá. Chúng ta đã đi đến coi sự tương ứng như dấu xác nhận của chân lí. Nhưng sự tương ứng có thể được dẫn đến theo hai cách: hoặc đưa ra các tuyên bố tương ứng với các sự thực, hoặc làm cho các sự thực tương ứng với các tuyên bố. Chỉ có ở trường hợp đầu sự tương ứng là cái đảm bảo của chân lí; ở trường hợp thứ hai sự tương ứng có thể là sự chứng nhận cho tác động của một niềm tin hơn là cho tính đúng đắn hay hợp lệ của nó. Lời cảnh báo này áp dụng cho hầu hết các tuyên bố chính trị và nhiều lí thuyết xã hội. Thay cho là đúng hay sai, chúng tuỳ thuộc vào việc có được tin không.
Tôi hầu như không cần nhấn mạnh ý nghĩa sâu sắc của đề xuất này: Đối với tư duy chẳng gì căn bản hơn khái niệm chân lí. Chúng ta đã quen nghĩ về các tình trạng có người tham gia biết suy nghĩ theo cùng cách như nghĩ về các hiện tượng tự nhiên, nhưng mối quan hệ giữa sự thực và tuyên bố là khác: Thay cho đường một chiều, ta thấy một cơ chế phản hồi hai chiều- phản thân. Vì vậy chúng ta phải xét lại kĩ lưỡng cách chúng ta nghĩ về thế giới công việc con người và xã hội.


Một Quan niệm Tương tác về Thế giới

Trong lĩnh vực xã hội chúng ta có thể đưa ra sự phân biệt giữa tuyên bố và sự thực, giữa tư duy và thực tại, nhưng chúng ta phải nhận ra rằng sự phân biệt này là do chúng ta đưa vào với một nỗ lực để làm cho thế giới mà chúng ta sống có ý nghĩa; nó không thịnh hành trong thế giới đó. Tư duy của chúng ta thuộc cùng một vũ trụ mà chúng ta nghĩ về. Điều này gây ra vô số khó khăn không tồn tại khi đề cập đến các khía cạnh của thực tại nơi tư duy và thực tại có thể được tách rời ra thành hai ngăn kín kẽ (như trong khoa học tự nhiên). Thay cho các phạm trù tách biệt, chúng ta phải coi tư duy như một phần của thực tại. Tình cờ, những khó khăn tương tự nảy sinh khi chúng ta thử hiểu thực tại như một tổng thể (vì chúng ta là một phần của nó), nhưng đó không phải là trọng tâm chính của thảo luận này.

Không thể hình thành một bức tranh về thế giới chúng ta sống mà không có méo mó. Theo nghĩa đen, khi mắt người tạo ra một hình ảnh thị giác có một điểm mù nơi dây thần kinh mắt gắn với hệ thống thần kinh. Hình ảnh hình thành trong óc chúng ta tái tạo thế giới bên ngoài rõ một cách xuất sắc, và có thể thậm chí lấp kín điểm mù bằng cách ngoại suy từ phần còn lại của bức tranh, dẫu cho chúng ta không thể thực sự thấy cái gì ở vùng do điểm mù che phủ. Đây là một ẩn dụ hữu ích cho vấn đề chúng ta đối mặt. Sự thực rằng tôi dựa vào một ẩn dụ để giải thích vấn đề có lẽ là một ẩn dụ còn tốt hơn.

Thế giới chúng ta sống là cực kì phức tạp. Để hình thành một quan niệm về thế giới có thể dùng như cơ sở cho các quyết định, chúng ta phải đơn giản hoá. Sử dụng những khái quát hoá, ẩn dụ, tương tự, so sánh, phân đôi, và các kiến trúc tinh thần khác dùng để đưa trật tự nào đó vào một vũ trụ mặt khác rất khó hiểu. Nhưng mọi kiến trúc tinh thần ở mức độ nào đó làm méo mó cái nó đại diện, và mọi sự méo mó thêm cái gì đó vào thế giới mà chúng ta cần hiểu. Các ý tưởng có một cách để có cuộc sống riêng của chúng. Tôi sẽ cho một minh hoạ thực tiễn về điều này trong quan hệ với khái niệm về xã hội mở (xem Chương 5). Chúng ta tư duy càng nhiều, chúng ta phải suy nghĩ càng nhiều. Đó là vì thực tại không phải là một cái được cho trước. Nó hình thành trong cùng quá trình như tư duy của những người tham gia: Tư duy càng phức tạp, thực tại càng trở nên phức tạp. Tư duy chẳng bao giờ có thể bắt kịp thực tại, vì thực tại luôn luôn phong phú hơn nhận thức của chúng ta. Thực tại có khả năng làm các nhà tư tưởng ngạc nhiên, và tư duy có khả năng tạo ra thực tại.

Định lí Gödel đã làm cho tôi thấy rõ điểm này. Gödel đã chứng minh về mặt toán học rằng luôn luôn có nhiều qui luật trong toán học hơn ta có thể chứng minh được về mặt toán học. Kĩ thuật mà ông đã dùng là biểu thị các qui luật toán học bằng các số Gödel. Vì số các số nguyên là vô hạn, luôn có thể thêm một số vào vũ trụ mà các số này thuộc về, đó là, các định luật toán học. Bằng cách này, Gödel đã có thể chứng minh không chỉ rằng số các qui luật là vô tận mà cả rằng nó vượt quá số qui luật có thể được biết đến bởi vì có các qui luật về các qui luật về các qui luật ad infinitum (cứ thế mãi); cái phải được biết trải rộng ra theo bước với tri thức của chúng ta.

Cùng dòng lập luận có thể áp dụng cho tình trạng có những người tham gia có tư duy. Để hiểu điều này, chúng ta cần xây dựng một mô hình chứa quan điểm của tất cả những người tham gia. Bản thân những quan điểm đó cũng lại tạo thành các mô hình cái phải chứa quan điểm của tất cả những người tham gia. Như thế chúng ta cần các mô hình của các nhà xây dựng mô hình mà các mô hình của họ bao hàm các mô hình của các nhà xây dựng mô hình, và vân vân, cứ thế mãi, ad infinitum. Các mô hình nhận ra càng nhiều mức, có càng nhiều mức cần phải nhận ra- và nếu các mô hình không nhận ra chúng, như sớm muộn chúng phải thế- chúng không còn tái tạo thực tại. Nếu giả như tôi có kĩ năng toán của Gödel, tôi phải có khả năng chứng minh theo dòng suy nghĩ này rằng các quan điểm của những người tham gia không thể tương ứng với thực tại.

Đây không phải là chỗ để thảo luận nhiều cách khác nhau trong đó tư duy cả làm méo mó lẫn làm thay đổi thực tại. Hiện tại có thể gộp chúng lại dưới cái tên “tính có thể sai”. Có các vấn đề không có lời giải cuối cùng nào, và nỗ lực tìm giải pháp có thể làm trầm trọng vấn đề. Một người tham gia có tư duy tìm cách nhận tri thức hay thử đương đầu với viễn cảnh về cái chết của mình đối mặt với các vấn đề không có lời giải. Tôi ám chỉ các loại vấn đề này như “thân phận con người”. Tuy nhiên, các vấn đề không có lời giải không giới hạn ở thân phận con người. Ta bắt gặp chúng trong nhiều bối cảnh: Thiết kế một hệ thống tỉ giá hối đoái, khắc phục sự lạm dụng thuốc [ma tuý], duy trì tính ổn định của các thị trường tài chính- tất cả các vấn đề không giải quyết được hiện nay, nơi giải pháp được chấp nhận nhất thiết gây ra các vấn đề mới.


Hai Phiên bản của Tính Có thể Sai

Tôi đề xuất thảo luận hai phiên bản của tính có thể sai: thứ nhất, một phiên bản “hình thức”, ôn hoà, dễ chứng minh hơn mang tính cố hữu trong khái niệm phản thân và biện minh cho một lối tư duy phê phán; thứ hai, một phiên bản triệt để, mang tính cá nhân, và cá tính hơn cái thực sự đã hướng dẫn tôi trong cuộc sống và tạo thành cơ sở của lí thuyết của tôi về lịch sử.

Phiên bản hình thức, ôn hoà của tính có thể sai được thảo luận rồi. Tính có thể sai có nghĩa là thiếu sự tương ứng giữa tư duy của người tham gia và trạng thái thật của sự việc; như một kết quả, các hành động có những hậu quả không dự tính trước. Kết quả không nhất thiết khác chủ ý, nhưng có khả năng như vậy. Có nhiều sự kiện thường, buồn tẻ diễn ra đúng như dự kiến, song các sự kiện biểu lộ một sự khác biệt là lí thú hơn. Chúng có thể biến đổi quan niệm của người dân về thế giới và khởi động một quá trình phản thân, đầu tiên tự-hợp lệ và tự-tăng cường nhưng cuối cùng trở thành tự-thủ tiêu. Khi xảy ra, một quá trình như vậy có thể đẩy các quan điểm thịnh hành và trạng thái thật của sự việc ra khá xa nhau mà không có bất kể đảm bảo nào rằng chúng sẽ bao giờ được kéo lại với nhau. Thông thường, các sai lầm có xu hướng được sửa chữa, nhưng khi các quan điểm là tự-hợp lệ không hiển nhiên rằng chúng là sai lầm cho đến muộn hơn nhiều trong quá trình- và vào lúc đó, thực tại làm cơ sở cũng đã thay đổi.

Tính có thể sai nghe có vẻ tiêu cực, song nó có khía cạnh tích cực quan trọng hơn về nhiều mặt. Cái không hoàn hảo có thể được cải thiện. Sự thực là hiểu biết của chúng ta không hoàn hảo một cách cố hữu làm cho có thể học và nâng cao hiểu biết của chúng ta. Tất cả cái cần là thừa nhận tính có thể sai của chúng ta và thiết lập một cơ chế sửa sai. Điều này mở đường cho tư duy phê phán, và không có giới hạn cho sự thấu hiểu của chúng ta có thể đi xa đến đâu. Phạm vi cho cải thiện là vô tận chính xác vì sự hoàn hảo là không thể đạt được.

Điều này không chỉ đúng cho tư duy mà cho cả xã hội chúng ta. Sự hoàn hảo né tránh chúng ta; dù ta chọn bất cứ đồ án nào, nó nhất thiết có thiếu sót. Vì vậy chúng ta phải thoả mãn với cái tốt thứ nhì: một hình thức xã hội không hoàn hảo song mở ra cho sự cải thiện. Đó chính là tính ưu việt của nó trên xã hội đóng, xã hội tìm cách từ chối sự bất hoàn hảo của riêng nó ngay cả khi thế giới xung quanh thay đổi. Sự thừa nhận tính có thể sai của chúng ta là chìa khoá cho sự tiến bộ.


Tính Có thể Sai Triệt để

Tại điểm này, tôi sẽ thay đổi chiến thuật. Thay cho thảo luận tính có thể sai nói chung, tôi cố giải thích nó có nghĩa gì với cá nhân tôi. Nó là nền tảng không chỉ cho quan niệm của tôi về thế giới mà cũng cho cá tính riêng của tôi, và như vậy nó được phản ánh trong ứng xử của tôi. Nó đã hướng dẫn hành động của tôi cả như người tham gia trong các thị trường tài chính và như một nhà từ thiện, và nó là nền tảng của lí thuyết của tôi về lịch sử. Nếu có bất kể gì độc đáo trong tư duy của tôi, thì đó là phiên bản “triệt để” này về tính có thể sai.

Tôi có quan niệm nghiêm ngặt hơn về tính có thể sai so với lí lẽ lí thuyết trước của tôi có thể lí giải. Tôi cho rằng mọi kiến trúc của trí óc con người – dù bó hẹp ở nơi sâu kín nội tại của tư duy của chúng ta hay được bộc lộ ra thế giới bên ngoài ở dạng các môn học, các hệ tư tưởng, và các định chế - đều có thiếu sót theo cách nào đó. Các thiếu sót có thể biểu hiện ở dạng các mâu thuẫn nội bộ hay mâu thuẫn với thế giới bên ngoài hay mâu thuẫn với mục đích mà chúng được dự kiến.

Định đề này, tất nhiên, mạnh hơn nhiều sự thừa nhận rằng tất cả các kiến trúc của chúng ta có thể là sai. Tôi không nói về một sự thiếu tương ứng đơn thuần mà về một thiếu sót thực sự trong tư duy của chúng ta và một sự khác biệt thật giữa ý định và kết quả. Như tôi đã giải thích trước đây, định đề này chỉ áp dụng cho các sự kiện lịch sử nơi sự khác biệt khởi động một quá trình ban đầu tự-tăng cường nhưng cuối cùng tự-thủ tiêu. Trong các tình huống thường, nhàm chán, các sai lầm được sửa chữa. Đó là lí do vì sao phiên bản triệt để của tính có thể sai có thể dùng như cơ sở cho một lí thuyết về lịch sử.

Luận điểm rằng tất cả mọi kiến trúc của con người đều có sai sót nghe ảm đạm và bi quan, nhưng không có lí do cho tuyệt vọng. Tính có thể sai nghe có vẻ tiêu cực chỉ vì chúng ta nuôi các hi vọng giả về sự hoàn hảo, vĩnh cửu, và chân lí cuối cùng - với tính bất tử được ném thêm vào. Đánh giá bằng các tiêu chuẩn như vậy, thân phận con người nhất thiết là không vừa ý. Thực ra, sự hoàn hảo và bất tử né tránh chúng ta, và sự vĩnh cửu chỉ có thể thấy trong cái chết. Nhưng cuộc sống cho một cơ hội để cải thiện sự hiểu biết của chúng ta chính xác là vì nó không hoàn hảo, và xã hội mở tạo cơ hội để cải thiện thế giới trong đó chúng ta sống chính xác vì nó thừa nhận tính không hoàn hảo của nó. Trong một xã hội hoàn hảo, chẳng còn gì để mà phấn đấu.

Có hai cách để xử lí việc nhận ra mọi kiến trúc đều thiếu sót: tìm cách trốn thoát, hay tìm những cải thiện thiếu hoàn hảo. Xã hội đóng theo đuổi ảo tưởng về sự hoàn hảo và vĩnh cửu; xã hội mở chấp nhận thân phận con người. Khi tất cả các kiến trúc đều không hoàn hảo, các lựa chọn nào đó là tốt hơn những cái khác, và chúng ta chọn cái nào tạo ra sự khác biệt hoàn toàn. Có nhiều cái được từ sự thừa nhận tính có thể sai của chúng ta. Xã hội mở nên được ưa hơn xã hội đóng.

Tuy nhiên, luận điểm của tôi rằng mọi kiến trúc con người và xã hội đều có thiếu sót không đủ tư cách là một giả thuyết khoa học vì nó không thể được kiểm chứng một cách thích hợp. Dù tôi có thể cho là quan điểm của những người tham gia luôn luôn khác thực tại, tôi không thể chứng minh nó vì tôi chẳng bao giờ biết thực tại sẽ ra sao khi không có quan điểm bị thiên lệch của chúng ta. Tôi có thể đợi cho các sự kiện chứng tỏ một sự khác biệt với kì vọng, nhưng, như tôi đã chỉ ra, các sự kiện kế tiếp không được dùng như một tiêu chuẩn độc lập cho quyết định các kì vọng nào là đúng, vì các kì vọng khác nhau có thể dẫn đến những kết quả khác nhau.

Tương tự, tôi có thể cho là mọi kiến trúc con người đều thiếu sót, nhưng tôi không thể nêu ra các sai sót gì cho đến sau sự thực, và ngay cả khi đó đề tài có thể bị tranh cãi vô tận. Các sai sót thường bộc lộ ra ở thời điểm tương lai nào đó, song đó không phải là bằng chứng rằng kiến trúc đã có sai sót ở thời điểm nó được hình thành. Nhược điểm của các tư tưởng thống trị và dàn xếp định chế trở nên hiển nhiên chỉ với thời gian trôi đi, và khái niệm phản thân chỉ biện minh cho đòi hỏi rằng mọi kiến trúc con người đều có tiềm năng sai sót. Đó là lí do vì sao tôi trình bày đề xuất của tôi như một giả thiết hoạt động, mà không có chứng minh logic hay địa vị khoa học.
Tôi gọi nó là một “giả thiết hoạt động” bởi vì nó đã hoạt động cho tôi như một nhà đầu tư. Nó đã cổ vũ tôi tìm ra các sai sót trong mọi luận điểm đầu tư và, khi tôi tìm thấy các sai sót này, để tận dụng sự sáng suốt. Khi tôi thiết lập một luận điểm đầu tư, tôi thừa nhận rằng diễn giải của tôi về tình hình nhất thiết bị méo mó. Điều này không làm tôi nản lòng để có một quan niệm; ngược lại, tôi tìm ra các tình huống nơi lí giải của tôi đã bất hoà với lẽ phải thịnh hành, bởi vì đó chính là cái cho một cơ hội kiếm lời. Nhưng tôi đã luôn luôn canh chừng lỗi lầm của mình; khi tôi phát hiện ra nó, tôi nắm bắt nó với sự sốt sắng. Sự khám phá ra sai lầm có thể cho phép tôi giữ bất kể lợi nhuận nào tôi đã kiếm được từ sự hiểu biết sai ban đầu của mình - hoặc cắt thiệt hại nếu sự hiểu biết đã chẳng mang lại ngay cả một khoản lợi nhuận tạm thời.

Hầu hết mọi người đều miễn cưỡng thừa nhận là họ sai; tôi thấy niềm vui khi phát hiện một sai lầm, bởi vì tôi biết là nó có thể cứu tôi khỏi nỗi đau tài chính. Vì tôi giả thiết rằng mọi luận điểm đầu tư đều nhất thiết có sai sót, tôi thích biết các sai sót đã là gì. Điều này không ngăn tôi đầu tư; ngược lại, tôi cảm thấy an toàn hơn nhiều khi tôi biết các điểm nguy hiểm tiềm tàng bởi vì chúng bảo tôi ngó tới các dấu hiệu nào để loại trừ tổn thất. Không có đầu tư nào cho lợi tức cao mãi. Dù một công ti có một vị thế thị trường mạnh, có ban quản lí xuất sắc, và lãi gộp đặc biệt, cổ phiếu có thể được đánh giá cao, ban quản lí có thể trở nên tự mãn, và môi trường cạnh tranh hay điều tiết có thể thay đổi. Khôn ngoan để tìm con sâu làm rầu nồi canh; khi bạn biết nó là gì, bạn trội hơn trong cuộc chơi.

Tôi đã phát triển biến thể riêng của mô hình Popper về phương pháp khoa học cho mình (tôi sẽ mô tả ở chương sau) để sử dụng ở các thị trường tài chính. Tôi thiết lập một giả thuyết trên cơ sở đó tôi đầu tư. Giả thuyết phải khác với quan điểm được chấp nhận; sự khác biệt càng lớn, lợi nhuận tiềm năng càng cao. Nếu không có sự khác biệt nào, thì chẳng đáng lấy một vị thế. Điều này tương ứng với luận điểm của Popper - bị nhiều triết gia khoa học phê phán- là thử thách càng nghiêm ngặt, thì giả thuyết rằng nó vượt qua càng giá trị. Trong khoa học, giá trị của một giả thuyết là vô hình; trong các thị trường tài chính, nó có thể được đo dễ dàng bằng tiền. Ngược với các giả thuyết khoa học, một giả thuyết tài chính không cần là đúng để sinh lời do đặc tính phản thân của nó; là đủ rằng nó phải được chấp nhận rộng rãi. Song một giả thuyết sai không thể thịnh hành mãi. Đó chính là lí do vì sao tôi thích đầu tư theo các giả thiết sai có cơ hội được chấp nhận rộng rãi, miễn là tôi đã biết sai sót của chúng. Cách tiếp cận này đã cho phép tôi bán kịp thời. Thí dụ, tôi đã tham gia vào đợt hưng thịnh tổ hợp độc quyền (conglomerate boom) chính xác vì tôi đã biết các điểm yếu là gì (xem giải thích ở chương 2). Tôi gọi các giả thuyết sai của tôi là “các lầm tưởng màu mỡ”, và tôi đã xây dựng lí thuyết của tôi về lịch sử, cũng như thành công của tôi ở các thị trường tài chính, xung quanh chúng.

Giả thuyết hoạt động của tôi - rằng tất cả các kiến trúc con người đều sai sót – không chỉ là phi khoa học mà còn có một sai sót căn bản: nó thực tế không đúng. Như chúng ta đã thấy, có khả năng đưa ra các tuyên bố đúng và xây dựng các lí thuyết đúng đắn. Khoa học tự nhiên là một lâu đài về cái trí óc con người có khả năng tạo nên. Dù sao giả thuyết vẫn hoạt động trong thực tiễn. Các kiến trúc đúng đắn là hiếm đến mức khi thấy một cái chúng ta có xu hướng làm nó quá tải hay mở rộng quá giới hạn riêng của nó.
Phương pháp khoa học là một thí dụ tốt: Nó đã hoạt động đối với tự nhiên; vì vậy chúng ta muốn dùng nó cho xã hội. Cơ chế thị trường là một trường hợp khác như vậy: Nó hoạt động tốt trong phân bổ nguồn lực giữa các nhu cầu cá nhân; vì thế chúng ta bị cám dỗ để dựa vào nó để thoả mãn các nhu cầu công cộng. Tương tự với các định chế: Một khi chúng đã được thiết lập chúng ta có xu hướng dựa vào chúng ngay cả sau khi chúng đã mất tính hợp lệ hay sự biện minh của chúng. Mọi định chế gây ra yếu điểm với thời gian trôi đi, nhưng điều này không có nghĩa là nó đã không phù hợp hay phi hiệu quả ở thời điểm được thiết lập.

Thiết lập các định chế, giống các hoạt động khác, có các hệ quả không chủ ý; những hậu quả như vậy không thể lường trước được lúc thiết lập. Cho dù chúng có thể, vẫn có thể xảy ra, bởi vì các hệ quả không chủ ý có thể nảy sinh trong tương lai và giữa chừng định chế có thể thoả mãn nhu cầu hiện tại. Như thế giả thuyết công việc của tôi không phải không tương thích với ý tưởng rằng một tiến trình hành động là tốt hơn tiến trình khác, rằng thực ra có một tiến trình hành động tối ưu tại một thời điểm và một chỗ cho trước. Nó, tuy vậy, ngụ ý rằng tối ưu chỉ áp dụng cho một thời điểm cụ thể trong lịch sử; cái là tối ưu ở một thời điểm có thể thôi là vậy ở thời điểm kế tiếp. Đây là một khái niệm hóc búa, đặc biệt với các định chế không thể tránh khỏi sức ỳ nào đó. Thí dụ, một dạng thuế có hiệu lực càng lâu, thì càng có khả năng là nó sẽ bị lách; có thể có lí do chính đáng để thay đổi hình thức đánh thuế sau một thời gian song không có lí để không đánh thuế. Lấy một ví dụ khác, Thiên chúa Giáo đã tiến hoá thành cái gì đó khá khác cái mà Jesus đã hình dung, song đó không phải là lí do để bác bỏ các giáo huấn của Ngài. Chúng ta có thể gọi các kiến trúc của con người là sai sót chỉ nếu chúng ta kì vọng chúng hợp lệ vĩnh viễn, như các qui luật khoa học.

Nói cách khác, các lí thuyết và chính sách sai sót có thể hữu ích tạm thời ở thời điểm nào đó của lịch sử. Các lầm lạc màu mỡ là các kiến trúc sai sót với các ảnh hưởng tốt ban đầu. Các tác động tốt kéo dài bao lâu phụ thuộc vào các sai sót có được nhận ra và sửa chữa kịp thời không. Theo cách này, các kiến trúc có thể trở nên ngày càng tinh tế (sự tiến hoá của ngân hàng trung ương là một ví dụ tốt). Nhưng chẳng có lầm lạc màu mỡ nào có thể kéo dài mãi mãi; cuối cùng, cơ hội cải tiến và phát triển nó sẽ cạn kiệt, và một lầm lạc màu mỡ mới sẽ chiếm được trí tưởng tượng của con người. Cái mà tôi sắp nói có thể là một lầm lạc màu mỡ, song tôi thiên về diễn giải lịch sử các ý tưởng như bao gồm các lầm lạc màu mỡ. Người khác có thể nhắc đến chúng như “các hệ thuyết: paradigms”.

Sự kết hợp của hai ý tưởng này –dù cho mọi kiến trúc trí tuệ đều sai sót, một số trong chúng là màu mỡ - nằm ở lõi của phiên bản tính có thể sai triệt để của riêng tôi. Giả thiết công việc của tôi cho phép tôi hành động với các lầm lạc màu mỡ. Tôi dùng chúng cho thế giới bên ngoài và các hoạt động riêng của mình với sinh lực như nhau, và chúng đã phục vụ tôi tốt cả như nhà quản lí quĩ lẫn, gần đây hơn, như một nhà từ thiện. Liệu các ý tưởng này cũng sẽ phục vụ tôi tốt với tư cách nhà tư tưởng được kiểm chứng ngay bây giờ, bởi vì tính có thể sai triệt để tạo nền tảng cho diễn giải các thị trường tài chính và lí thuyết về lịch sử mà tôi dốc sức làm ở cuốn sách này.


Một Tái bút Riêng tư

Tính có thể sai triệt để đối với tôi không chỉ là một lí thuyết trừu tượng mà cũng là vấn đề của niềm tin cá nhân sâu sắc. Như một nhà quản lí quĩ, tôi đã phụ thuộc rất nhiều vào xúc cảm riêng của mình, bởi vì tôi đã ý thức được về những thiếu hiểu biết của mình. Các xúc cảm trội hẳn mà tôi đã hoạt động với đã là sự bất trắc và sợ hãi. Tôi đã có những giây phút hi vọng, thậm chí hân hoan, nhưng các xúc cảm này làm cho tôi không an toàn; lo lắng làm tôi cảm thấy an toàn hơn. Như thế niềm vui đích thực duy nhất mà tôi đã trải nghiệm là khi tôi khám phá ra cái gì đã làm cho tôi phải lo lắng. Nhìn chung, tôi thấy quản lí một quĩ tự bảo hiểm (hedge fund) là cực kì vất vả. Tôi chẳng bao giờ có thể công nhận thành công của mình – nó có thể ngăn tôi khỏi lo lắng- nhưng tôi chẳng băn khoăn thừa nhận các sai lầm của mình.

Tôi mới chỉ chợt nhận ra gần đây thái độ tự phê phán này là lạ đến thế nào. Nó làm tôi ngạc nhiên là những người khác đã ngạc nhiên về cách tư duy của tôi. Khám phá ra một sai lầm trong tư duy hay các vị thế đầu tư của tôi đã là một nguồn vui hơn là sự hối tiếc. Điều đó có quá nhiều ý nghĩa đối với tôi đến mức tôi đã nghĩ nó phải có ý nghĩa với cả những người khác; nhưng không phải thế. Hầu hết mọi người cố hết sức để từ chối hay che đậy các sai lầm của mình. Thực vậy, các quan niệm sai và hành động sai của họ trở thành một phần không tách rời của tính cách họ. Tôi sẽ chẳng bao giờ quên kinh nghiệm tôi đã có khi viếng thăm Argentina năm 1982 để ngó tới núi nợ nần mà đất nước đó đã tích lại. Tôi đã tìm một số các chính trị gia đã phục vụ các chính phủ trước đó và hỏi họ họ sẽ giải quyết tình hình ra sao. Tất cả chẳng trừ một ai, họ đều nói họ sẽ áp dụng cùng các chính sách như họ đã theo đuổi khi họ còn nắm quyền. Hiếm khi tôi đã gặp nhiều người đến như vậy những người đã học ít đến vậy từ kinh nghiệm.

Tôi không được phóng đại trường hợp vì một thái độ tự phê phán. Nó không thể hoạt động bởi chính nó. Nó phải gắn với một mức độ thành công nào đó để mang lại kết quả tích cực. Một thái độ tự phê phán là một phần của một quá trình phản thân cái có thể là tự tăng cường theo cả hai chiều. Ý thức được các hạn chế của mình, tự nó, không giúp khắc phục chúng; trái lại, sự tự-nghi ngờ có thể dễ dàng trở nên tự-hợp lệ bằng cách làm xói mòn lòng tự tin. Ngược lại, khả năng sửa chữa sai lầm nâng cao thành tích và thành tích cao đặt ta vào vị thế mạnh để nhận ra và sửa chữa sai lầm. Tôi biết tôi nói về cái gì bởi vì tôi đã trải qua cả hai kinh nghiệm. Thái độ tự phê phán của tôi có trước khi tôi dính líu đến thị trường cổ phiếu. Tôi đã may mắn rơi vào kinh doanh đầu tư nơi tôi có thể đem thái độ đó vào mục đích tốt. Tôi không chắc liệu cùng thái độ ấy sẽ tỏ ra cũng bổ ích ngang thế trong viết cuốn sách này. Tôi không do dự thừa nhận các sai lầm của mình nhưng điều đó có thể không làm tôi thành công như tôi đã làm trong thị trường cổ phiếu.

Tôi đã mang thái độ phê phán này vào các hoạt động từ thiện của tôi. Tôi thấy từ thiện đầy bí ẩn với những nghịch lí và hậu quả không chủ ý. Thí dụ, việc thiện có thể biến những người nhận thành các đối tượng bố thí. Cho được giả thiết là giúp người khác, nhưng trong thực tế nó thường đơn thuần chỉ phục vụ cho sự làm vừa lòng cái tôi của người cho. Còn tệ hơn, người ta thường xuyên tiến hành việc thiện bởi vì họ muốn cảm thấy tử tế, chứ không vì họ muốn làm điều thiện.

Giữ các quan điểm này, tôi thấy có bổn phận đi theo con đường khác. Tôi thấy mình cư xử theo cách như trong kinh doanh. Thí dụ, trong kinh doanh tôi không ân hận về việc làm tổn thương xúc cảm của nhóm đầu tư của tôi khi thành tích của quĩ đầu tư của tôi bị lâm nguy; tương tự, tôi cho sứ mạng của quĩ từ thiện địa vị cao hơn quyền lợi của nhân viên của quĩ hay của cá nhân những người xin trợ cấp. Tôi thường nói đùa rằng quĩ chúng tôi là quĩ ghét người duy nhất trên thế giới. Tôi nhớ việc giải thích quan điểm của tôi về các quĩ tại cuộc họp nhân viên ở Karlovi Vari, Tiệp Khắc, khoảng năm 1991, và tôi chắc chắn những người đã hiện diện sẽ chẳng bao giờ quên. Tôi đã giải thích rằng các quĩ phải đặt sứ mạng của mình lên trên lợi ích riêng của chúng nhằm biện minh cho sự tồn tại của chúng, nhưng điều đó đi ngược lại bản chất con người. Như một kết quả chúng đầy rẫy tham nhũng, và thiếu minh bạch về mục tiêu của chúng dẫn tới phi hiệu quả. Tôi không quan tâm đến có một quĩ như vậy, và tôi coi việc dẹp bỏ một quĩ sa sút là một thành tựu lớn hơn đi lập một cái mới.

Phải thú nhận tôi đã dịu hơn với thời gian trôi đi. Có một quĩ từ thiện là rất khác điều hành một quĩ tự bảo hiểm. Về cơ bản thiếu áp lực bên ngoài, và chỉ có kỉ luật nội tại là cái giữ cho thái độ phê phán sống động. Hơn nữa, đứng đầu một quĩ từ thiện lớn cần đến quản lí con người hơn là quản lí tiền. Người ta không thích nghe các nhận xét phê phán - họ muốn khen ngợi và động viên. Không nhiều người chia sẻ sở thích nhận diện sai lầm của tôi, và còn ít hơn nữa những người chia sẻ niềm vui của tôi trong việc tìm thấy nó. Để là nhà lãnh đạo hiệu quả, phải làm hài lòng người ta. Tôi học khó khăn nhất cái dường như là tự nhiên đối với các chính trị gia và những người đứng đầu các công ti.

Cũng có một ảnh hưởng khác tác động. Tôi phải xuất hiện trước công chúng, và khi đó tôi được kì vọng tỏ ra rạng rỡ tự tin. Trong thực tế, tôi bị héo mòn bởi thiếu tự tin, và tôi thích cảm giác ấy. Tôi rất tiếc để mất nó. Có một khoảng cách rộng giữa con người công khai của tôi và cái tôi coi là thực mình, nhưng tôi ý thức được về quan hệ phản thân giữa hai cái. Tôi đã theo dõi với sự kinh ngạc sự phát triển con người công chúng đã ảnh hưởng đến tôi ra sao. Tôi đã trở thành một người nổi tiếng “có sức thuyết phục: charismatic”. May thay, tôi không hoàn toàn tin vào mình như những người khác tin. Tôi cố nhớ các hạn chế của mình, dù là tôi không cảm thấy chúng sâu sắc như tôi thường cảm thấy. Nhưng các nhân vật có sức thu hút khác đã không đạt tới địa vị lãnh đạo của họ theo cùng lộ trình. Họ không có cùng trí nhớ. Họ có lẽ nhớ rằng họ đã luôn luôn cố khiến người khác tin vào họ, và cuối cùng họ đã thành công. Thiếu tự tin không làm họ héo mòn, và họ không cần kiềm chế sự thôi thúc để bày tỏ nó. Chẳng ngạc nhiên là thái độ của họ đối với tính có thể sai của riêng họ là khác. Hơn nữa, nếu họ thừa nhận các nhược điểm họ có thể không giữ được vị trí lãnh đạo của mình. Người ta không muốn lãnh đạo của mình có thể sai. Đó là một trong những thiếu sót tồi tệ nhất của các nền dân chủ đương thời của chúng ta: Các nhà lãnh đạo của chúng ta được giữ với các tiêu chuẩn mà có lẽ họ không thể thoả mãn.

Thật hấp dẫn để xem con người công chúng mới đạt được của tôi quan hệ thế nào với bản ngã trước của tôi như nhà quản lí quĩ. Khi tôi còn là một nhà quản lí quĩ tích cực, tôi lảng tránh sự công khai; tôi đã coi việc xuất hiện trên bìa của một tạp chí tài chính là một đòn chí tử. Điều này chẳng khác gì một sự mê tín, nhưng nó được xác nhận tốt bởi kinh nghiệm. Dễ thấy vì sao. Sự công khai có thể gây ra cảm giác hoan hỉ lâng lâng, và dù cho tôi cố kìm nén nó, nó có thể ném tôi khỏi sự tiến bộ của mình. Và nếu tôi bày tỏ một quan niệm thị trường công khai, tôi có thể thấy khó thay đổi ý của mình.
Trong kiếp mới của tôi, công luận – cái người khác nghĩ về tôi – đóng một vai trò quan trọng hơn. Nó làm cho tôi đủ khả năng thoả thuận buôn bán, thậm chí thao túng các thị trường, nhưng nó làm cho tôi không đủ tư cách quản lí tiền. Những lời nói của tôi có thể lay động thị trường, mặc dù tôi hết sức cố gắng không lạm dụng quyền năng đó. Đồng thời, tôi đã mất khả năng là một nhà quản lí tiền thành công. Tôi đã triệt phá cơ chế đau đớn và lo lắng cái thường hướng dẫn tôi, và đồng thời con mắt thiên hạ trên thực tiễn làm cho là không thể đối với tôi đi hoạt động như một người tham gia ít nhiều ẩn danh.

Có thể thấy rằng hoạt động trong các thị trường tài chính đòi hỏi một lối nghĩ khác cách cần thiết để hoạt động trong một khung cảnh xã hội, chính trị, hoặc tổ chức - hoặc thực ra để hoạt động như một người bình thường. Đối với một nhà quản lí tiền, chỉ có một thứ được chú ý đến: thành tích. Tất cả các cân nhắc khác phải đặt xuống dưới nó. Thị trường là một người đốc công hà khắc: Nó không cho phép sự bê tha hay quan tâm đến người khác. Cái mà những người khác nghĩ về bạn là quan trọng, song kết quả - đo bằng một tiêu chuẩn khách quan, tiền – quan trọng hơn. Có một tiêu chuẩn khách quan khuyến khích thành tích khách quan. Đó là cái làm cho các thị trường tài chính hiệu quả đến vậy: Chúng biến con người thành cái máy làm tiền. Điều đó có giá trị của nó, song một xã hội bị chế ngự bởi các thị trường tài chính có thể dễ trở nên dã man. Đây không phải là ý nghĩ viển vông mà là một mối nguy hiểm hiện thời.

Phiên bản tính có thể sai triệt để mà tôi chấp nhận như một giả thiết công việc chắc chắn tỏ ra hữu hiệu trong các thị trường tài chính. Thành tích của tôi vượt quá cái giả thuyết bước ngẫu nhiên cho phép với một chênh lệch thuyết phục. Liệu nó có áp dụng cho các khía cạnh khác của sự tồn tại của con người? Điều đó phụ thuộc vào mục đích của chúng ta là gì. Nếu chúng ta muốn hiểu thực tại, tôi tin nó hữu ích; song nếu mục đích là để thao túng thực tại, nó sẽ không hoạt động tốt. Sức thu hút (charisma) hoạt động tốt hơn nhiều.

Quay lại cảm xúc riêng của tôi, tôi đã học cách thích nghi với thực tại mới trong đó tôi hoạt động. Tôi thường thấy sự phát biểu ca ngợi và biết ơn là hết sức phiền nhiễu, nhưng tôi đã nhận ra rằng đây là một phản xạ sót lại từ những ngày tôi còn là nhà quản lí tiền tích cực; Tôi phải được chỉ dẫn bởi các kết quả của hành động của tôi, chứ không bởi cái những người khác nghĩ về chúng. Tôi vẫn bị lòng biết ơn làm cho lúng túng, và tôi vẫn tin rằng làm việc thiện - nếu nó đáng ca ngợi- phải đặt thành tựu của sứ mạng của nó lên trên việc làm vừa lòng bản ngã. Tuy nhiên, tôi sẵn lòng nhận lời khen, bởi vì việc làm từ thiện của tôi thực ra thoả mãn điều kiện này. Liệu nó có thể tiếp tục như thế dưới ánh sáng của sự thay đổi thái độ của tôi về sự ca ngợi là vấn đề làm tôi lo lắng, nhưng chừng nào tôi còn lo lắng thì câu trả lời có lẽ sẽ vẫn là khẳng định.

LinkedInPinterestCập nhật lúc: