Gán nhãn chất lượng cho học hiệu, học hàm

03:51 CH @ Thứ Hai - 03 Tháng Mười Một, 2003

Dù đây đó có người nhấn mạnh tới vấn đề này thì cũng không bàn tới những cơ chế cụ thể để nâng cao chất lượng đội ngũ những nhà giáo dạy đại học và những nhà khoa học. Tôi muốn đề nghị một cơ chế cụ thể: gán nhãn chất lượng cho những sản phẩm giáo dục đại học và sau đại học.

Cơ chế nào cho sản phẩm đại học?

Có một thực tế không thể bác bỏ là chất lượng giữa các trường đại học rất khác nhau, chất lượng giữa các loại hình đào tạo cũng rất khác nhau. Cấp một văn bằng, một học vị là cấp một giấy xác nhận về trình độ chuyên môn, năng lực khoa học để người có văn bằng đó được quyền hành nghề theo chuyên môn ghi trong đó.

Nhưng có những người tìm kiếm một văn bằng không vì mục đích chuyên môn, không vì động cơ khoa học mà vì động cơ quyền lực và địa vị. Có người trưng ra tới bốn, năm tấm bằng đại học khi ứng cử vào một chức vị nào đó. Nghe mà kinh!

Cần có cơ chế giảm bớt hiện tượng dùng văn bằng để làm tấm “hộ chiếu” leo lên những nấc thang quyền lực. Những ứng cử viên cho một chức danh nào đó trong các cơ quan và đoàn thể bắt buộc phải ghi rõ đó là bằng cử nhân chính qui, hàm thụ hay tại chức, và đó là bằng của Trường ĐH Bách khoa TP.HCM hay bằng của Viện ĐH Mở bán công Hà Nội

Cơ chế nào cho các nhà khoa học?

Cần đào thải những người dùng bằng cấp tiến sĩ (TS) như một thứ hàng hóa, một thứ “mác” làm “cần câu cơm”, dùng để “chạy sô” kiếm tiền nhanh hơn, nhiều hơn. Hàng hóa dùng lâu thì hỏng. Hàng hóa để lâu cũng “quá đát”, hết thời hạn dùng. Phải loại bỏ những hàng hóa ấy. Con người cũng vậy. Khoa học luôn luôn phát triển với tốc độ ngày một nhanh. Nhà khoa học không chịu nghiên cứu, tự bằng lòng với những kiến thức cũ mèm tất không đáp ứng nhiệm vụ được trao. Theo đúng qui luật phát triển của xã hội, họ cần bị đào thải.

Nhiều người sau khi được học vị TS, học hàm phó giáo sư (PGS), giáo sư (GS) thì không nghiên cứu gì nữa. (GS Hoàng Tụy cho rằng số này chiếm hơn 2/3). Họ trở thành những nhà khoa học “nằm vùng”, cả chục năm không hề có một công trình khoa học. Nhưng họ vẫn đường đường có “mác” TS, PGS như ai và xã hội không biết họ là TS thực, PGS thực hay là “tiến sĩ giấy”, “PGS giấy”. Cần đào thải những ai, những gì không còn thích hợp, không còn đáp ứng nhiệm vụ được giao phó. Để thực hiện điều này, ngoài những biện pháp hành chính tôi đề nghị một cơ chế dùng dư luận xã hội.

Không thể có một thương hiệu sơmi Việt Nam, giày dép VN, cà phê VN chung chung do Nhà nước bao cấp để cạnh tranh với thiên hạ mà phải là “sơmi Việt Tiến”, “giày Biti’s”, “giày Thượng Đình”, “cà phê Trung Nguyên”... Các công ty theo qui luật của thị trường cạnh tranh nhau để tồn tại và phát triển. Vậy thì cũng không nên có những học hiệu, học hàm TS, PGS, GS chung chung. Cái “mác” chung chung như vậy đồng nghĩa với việc Nhà nước đã bao cấp chất lượng cho những học vị, học hàm này.

Nếu như Nhà nước không thể bao cấp về chất lượng cho các thương hiệu thì Nhà nước cũng không thể bao cấp chất lượng cho các học hiệu, học hàm. Cần theo đúng qui luật. Hãy đưa những học vị, học hàm này về từng cơ sở nghiên cứu và đào tạo như đã đưa các thương hiệu về từng công ty. PGS, GS là của từng trường cụ thể chứ không phải là PGS, GS Việt Nam chung chung. Nhưng cần gán nhãn chất lượng học hiệu, học hàm cho từng giảng viên mỗi trường đại học. Có vậy xã hội mới có điều kiện tốt hơn trong việc bình giá chất lượng và do đó sàng lọc con người và các trường đại học.

Cơ chế nào để xác định một nhà khoa học là có nghiên cứu, vẫn hoàn thành nhiệm vụ được giao?

Thiết tưởng ở đây chúng ta nên nhắc tới châm ngôn “publish or perish” (công bố hay là tàn lụi, công bố công trình khoa học hay là tự đào thải) trong giới khoa học Mỹ. Chúng ta nên dùng cơ chế công bố công trình khoa học như nhiều quốc gia đã thực hiện để gán nhãn chất lượng học hiệu, học hàm: hằng năm mỗi trường đại học phải xuất bản niên giám khoa học công bố những công trình khoa học của những giảng viên cơ hữu trường mình trong ba năm gần nhất.

Những giảng viên là GS, PGS, TS nhất thiết phải được ghi vào niên giám này dù không có công trình khoa học nào. Dễ dàng xây dựng được những qui định đảm bảo cho những niên giám này là trung thực. Bộ Giáo dục và đào tạo cũng cần có niên giám chính thức công bố những công trình khoa học của các GS, PGS cho từng khối ngành.

Khó khăn chính trong việc xuất bản những niên giám này không phải ở chỗ không có kinh phí xuất bản. Chỉ bớt đi vài bữa “tiếp khách” hay “mừng thành tích” là mỗi trường có đủ tiền để làm. Khó khăn chủ yếu là sẽ có những GS, PGS không thích công bố niên giám này, trước hết là những GS quan chức ở các ban, bộ trên trung ương. Tôi dùng “GS quan chức” để phân biệt với “GS đứng lớp”, theo cách dùng phân biệt “kiến trúc sư hành nghề và kiến trúc sư quan chức” (TTCN, 13-7-2003).

Thủ tướng, một mặt nên có những qui định miễn giảm công bố công trình khoa học cho các GS quan chức - GS VIP, mặt khác cần có sự can thiệp trực tiếp bằng văn bản buộc các trường ĐH phải công bố niên giám khoa học. Có thế cơ chế gán nhãn chất lượng học hiệu, học hàm theo cách này mới có cơ may thực hiện được.

Một khi thực hiện việc gán nhãn chất lượng học hiệu, học hàm xã hội sẽ đòi hỏi mỗi giảng viên, mỗi trường ĐH phải cố gắng nâng cao chất lượng nghiên cứu và giảng dạy để xây dựng uy tín cho mình, cho trường mình tồn tại.

GS.TS NGUYỄN ĐỨC DÂN (Tuổi trẻ)

LinkedInPinterestCập nhật lúc: