Báo Nhân văn (5 số)
Báo Nhân văn số 1
Mục lục
- Mấy dòng ra mắt của Nhân văn
- Chúng tôi phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ - Ý kiến của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường
- Phan Khôi - Trả lời một tờ báo ở Sài Gòn
- Nguyễn Sáng - Khi trăng lên (tranh sơn mài)
- Người quan sát - Một đợt học tập và đấu tranh của giới văn nghệ
- X.Y.Z. - Thuốc đắng dã tật, nói thật mất lòng
- Hoàng Cầm - Tiến tới xét lại một vụ án văn học: Con người Trần Dần
- Nguyễn Sáng - Chân dung Trần Dần (ký hoạ)
- Tổ Ba Người - Đây mới là thủ phạm!
- Danh sách các bạn đã góp tiền ra báo
- Hàn Phi Tử - Tường đổ
- Lê Đạt - Nhân câu chuyện mấy người tự tử
- Hoàng Huế - Một cuốn sách chụp mũ
- Địa ngục miền Nam
- Hà Bá - Mầu sắc
- Trần Duy - Hậu trường sân khấu ‘tố cộng’ ở miền Nam (tranh châm biếm)
- Trần Công - Chống bè phái trong văn nghệ
- Trúc Lâm - Không phải truyện cười
- Quảng cáo cho Nhân văn số 2
Mấy dòng ra mắt của Nhân văn
Vừa lúc Đảng và Chính phủ đang có kế hoạch phát triển văn hoá, cải thiện sinh hoạt xã hội, chúng tôi cho ra tờ báo Nhân văn để đóng góp một phần nhỏ mọn vào công việc đó.
Vì vậy nên phần ngôn luận chủ yếu của nó được nêu lên là: văn hoá và xã hội.
Ngoài ra, trong nước nay mai sẽ có cuộc Đại hội Văn nghệ Toàn quốc. Báo Nhân văn cũng coi trọng việc ấy, dành một phần tờ báo cho việc thảo luận các vấn đề văn nghệ để góp phần xây dựng Đại hội.
Tóm lại, báo Nhân văn đứng dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, theo chủ nghĩa Mác- Lênin với tinh thần thực tiễn, để xúc tiến công cuộc củng cố miền Bắc, thống nhất nước nhà, để dọn đường đi đến thực hiện xã hội chủ nghĩa, theo như ý muốn của Đảng cũng là ý muốn của nhân dân cả nước.
Hứa nhiều mà làm ít, không bằng hứa ít mà làm nhiều. Lấy lời nói để được tín nhiệm, không bằng lấy việc làm để được tín nhiệm. Bởi vậy chúng tôi, khi bắt đầu ra mắt bạn đọc, nói ít mà hứa cũng ít.
NHÂN VĂN
Chúng tôi phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ
Ý kiến của luật sư Nguyễn Mạnh Tường, Giáo sư Đại học
Câu hỏi
- Theo ý ông, lúc này giới trí thức nói chung và giới văn nghệ nói riêng, cần phải làm những gì để góp phần thực hiện mở rộng tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do nghiên cứu và sáng tác?
- Theo ý ông và trên cơ sở nhu cầu phát triển của ngành ông thì chúng ta cần phải đem ra thảo luận rộng rãi những vấn đề gì?
Trả lời
1. Các tự do tư tưởng, ngôn luận, nghiên cứu, sáng tác, toàn là những tự do dân chủ. Qua phong trào phát động dân chủ do Đảng Lao động, Chính phủ và Mặt trận chủ trương và tổ chức, ta nhận thấy sự thực hiện dân chủ trong 2 năm vừa qua còn thiếu sót nhiều. Nguyên do ở đâu? Theo ý tôi là vì:
- Đảng viên Lao động và cán bộ thi hành chính sách thiếu tinh thần dân chủ. Do đó xa lìa quần chúng, và tạo ra tình trạng đối lập quần chúng với mình. Để sửa đổi, cần xây dựng quan điểm quần chúng cho đảng viên và cán bộ, và yêu cầu Trung ương Đảng và Chính phủ đảm bảo sự thi hành triệt để các tự do dân chủ.
- Quần chúng chưa thấm nhuần tinh thần chủ nhân ông trên đất nước, do đó chưa tranh đấu đòi thực hiện dân chủ. Để sửa chữa, ta cần xây dựng ý thức dân chủ cho quần chúng.
Có người, để chối từ thực hiện dân chủ, nói rằng nếu ta làm như vậy, sẽ có người lạm dụng các tự do dân chủ. Nhận định như vậy không đúng. Đứng trên lập trường cách mạng, ta phải tín nhiệm quần chúng, đặc biệt quần chúng trí thức hết sức thiết tha với các tự do dân chủ và sẵn sàng mang hết khả năng ra phục vụ nhân dân, nếu được sống trong một bầu không khí thực sự dân chủ.
2. Đối với ngành Đại học, vấn đề chủ yếu là xây dựng một nền đại học xứng đáng với chính thể của chúng ta, với sự đòi hỏi của quần chúng trong Nam cũng như ngoài Bắc, với dư luận trên trường quốc tế. Do đó, theo ý tôi và ý các giáo sư đại học Trung Quốc, Liên Xô, Ba Lan, Lỗ, Tiệp mà tôi vừa được tiếp xúc trên trường quốc tế, thi Đại học của ta phải xây dựng trên cơ sở 2 nguyên tắc:
- Tác phong của cấp lãnh đạo phải thật sự dân chủ. Quyền quyết định là do cấp lãnh đạo sử dụng, nhưng nếu tranh thủ được ý kiến của quần chúng cơ sở có đủ điều kiện để nhận định tình hình và để đề đạt nguyện vọng, thì quyết nghị của cấp lãnh đạo mới có hy vọng đảm bảo được tổ chức và đưa công tác đến chỗ thành công.
- Lựa chọn cán bộ thì phải dựa vào tiêu chuẩn chuyên môn là chính. Dĩ nhiên cán bộ thì phải có lập trường chính trị, điều ấy không ai chối cãi. Nhưng nếu chỉ có lập trường chính trị mà thôi thì chưa đủ vì thực hiện công tác phải đủ khả năng chuyên môn. Đảm bảo được một giáo trình đại học không phải là một việc chỉ đòi hỏi ở cán bộ một hay hai năm nghiên cứu. Đặt một người vào một cương vị đại học không khó: chỉ cần một chữ ký. Nhưng người được đặt vào cương vị ấy, muốn chứng minh rằng mình xứng đáng, sẽ gặp rất nhiều trở ngại nếu mình thiếu khả năng chuyên môn. Điều động cán bộ vào đại học không thế giải quyết theo cảm tình, trái lại phải giải quyết trên nguyên tắc của nền giáo dục mới và chính sách đối với trí thức. Không thể chú trọng đến cá nhân mà phải chú trọng đến tổ chức. Dư luận của quảng đại quần chúng trong nước từ Nam chí Bắc, và trên trường quốc tế, rất sáng suốt và theo rõi tình hình Đại học của nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà. Nếu quả thực ta quý trọng chính thể của ta, nhất định ta không để một ai có thể dị nghị về chính sách đối với trí thức nói chung, đối với đại học nói riêng.
Sẽ đăng: Ý kiến bác sĩ Đặng Văn Ngữ, nhà sử học Đào Duy Anh, nhà văn Nguyễn Đình Thi v.v…
Phan Khôi
Trả lời một tờ báo ở Sài Gòn
- Vâng, tôi chỉ là một tên đầy tớ nhưng mà là đầy tớ của nhân dân chứ không phải đầy tớ của đế quốc và địa chủ.
- Còn những người cộng sản Việt Nam, họ cũng chỉ là đầy tớ của nhân dân như tôi.
Tờ báo Cách mạng quốc gia ra ở Sài Gòn, trong số ngày 1-9 mới rồi, có một bài nói đến tôi, đề là "Phan Khôi bị chỉnh".
Trong bài, dựa vào hai mẩu vụn ở mục "Sổ tay" của hai số báo Cứu quốc 2.772 và 2.774 vừa rồi mà kết luận rằng tôi "làm đầy tớ Việt cọng". Người viết như lấy làm lạ lắm mà bài hãi than rằng: "Tài ba ấy đáng làm thầy thế mà lại chọn đi làm đầy tớ nhỉ!".
Các anh viết báo ở Sài Gòn có lạ gì với tôi đâu? Thuở nay tôi có hề chịu làm đầy tớ ai, các anh vẫn biết: nhưng bây giờ các anh có nói tôi “chịu làm đầy tớ", ấy là tự các anh muốn nói thế thì cứ nói.
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chưa phải là chính phủ cọng sản, còn lâu lắm mới đi lên chủ nghĩa cọng sản, nhưng các anh nói là "Việt cọng", thì riêng phần tôi, tôi lại sợ gì mà không nhận là "Việt cọng"?
Các anh nói hơi sai một chút: Tôi theo "Việt cọng", đồng ý và hợp tác với "Việt cọng" chứ không "làm đầy tớ cho Việt cọng" như các anh nói.
Tôi viết báo ở Sài Gòn tám chín năm, các anh há lại không biết tôi luôn luôn phản đối phong kiến triều Nguyễn vì thực dân Pháp sao? Trong thời kỳ từ 1939 đến 1945, là lúc dân tộc Việt Nam có cơ phục hưng, trông thấy nước Việt Nam Dân chủ Cọng hoà thành lập, tôi được làm một công dân, tôi lấy làm hân hạnh lắm. Đến khi thực dân Pháp toan xâm chiếm lần nữa, tôi chạy lên Việt Bắc theo chính phủ chống Pháp để lấy nước lại, sao các anh lại gọi tôi là "làm đầy tớ"?
Các anh dù thế nào cũng có lòng yêu nước nhưng vì lẽ gì đó mà các anh không theo kháng chiến được, mà bây giờ đành phải viết mà sống dưới chính quyền Ngô Đình Diệm, tôi không nỡ trách. Đã thế thì các anh nên biết điều một chút mới phải, chứ sao lại đi nói xấu tôi là một người theo chính nghĩa, chống ngoại xâm để mưu độc lập cho nước nhà?
Các anh đều là người có học thức như tôi, hoặc giả lại còn thấy biết rộng hơn tôi, một nhà nho cổ lỗ đã quá thời. Chúng ta đã biết lịch sử thế giới từ dùng đồ đá, đồ đồng, đồ sắt, tiến đến hơi nước, sức điện và bây giờ đến nguyên tử, xã hội loài người từ chế độ thị tộc, nô lệ đến phong kiến, tư bản, đế quốc, và ngày nay đế quốc sắp suy sụp rồi thì còn tiến đến cái gì? Các anh nếu không che giấu cái học thức của mình, thành thật mà nói, thì các anh phải nói như tôi rằng: Tiến đến chủ nghĩa cọng sản.
Sau đại chiến thứ hai, cả thế giới có nhiều nước đã trở nên nước dân chủ nhân dân và tiến lên xã hội chủ nghĩa, đó là cái cơ tiến lên cọng sản đó. Các anh là người viết báo, nếu các anh phủ nhận điều đó là các anh phản lại trí thức của mình, dối với lòng mình.
Chẳng sớm thì chầy, nước Mỹ là thầy của Ngô Đình Diệm rồi cũng phải đi đến cọng sản. Cứ xem cuộc bãi công của 65 vạn thợ gang thép vừa rồi thì đủ biết. Đó là nhân dân Mỹ bắt đầu làm cách mạng vô sản, từ bãi công, rồi đến cuối cùng là cầm võ khí: Công nghiệp nước Mỹ tiến bộ lắm, khi nó đã cách mạng, nó còn đi tới cọng sản nhanh hơn nước Nga.
Chưa biết ngày nào, chứ nước Việt Nam chúng ta cũng sẽ là một nước cọng sản. Không chừng, tôi chỉ sợ nước Việt Nam trở thành cọng sản sau nước Mỹ thì bẽ lắm.
Các anh cũng biết như tôi, mà các anh lại cứ đi nói “Việt cọng”, “Việt cọng”, làm như cọng sản là cái gì ấy, là thế nào ấy: Có kẻ còn hùa với Ngô Đình Diệm mà “tố cọng”, làm cho tôi buồn cười.
Tôi khuyên các anh viết báo dưới chính quyền Ngô Đình Diệm thì cứ viết, nhưng cốt nhớ một điều là phải để cái mặt mà nhìn nhau, cái ngày gặp nhau không xa đâu.
Hình chụp bức tranh “Khi trăng lên” của Nguyễn Sáng (ảnh: Lúa Vàng, bản kẽm: Tham) với lời ghi: “Khi trăng lên là một bức tranh sơn mài đẹp, một tác phẩm có giá trị trong Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc 1955, nhưng vì sự sai lầm của lãnh đạo nên đã chìm đi cùng với một số tác phẩm khác. Về vấn đề này, chúng tôi sẽ nói rõ trong số báo tới.”
Người quan sát
Chuẩn bị Đại hội Văn nghệ Toàn quốc - Một đợt học tập và đấu tranh của giới văn nghệ
Trong tháng Tám vừa qua, Hội Văn nghệ đã tổ chức tại Thủ đô một đợt học tập mười tám ngày nhằm mục đích nâng cao trình độ lý luận văn nghệ của anh chị em công tác trong ngành.
Sáu tập tài liệu đưa ra làm cở sở cho việc bàn cãi đã gợi những quan điểm về hiện thực, điển hình, đảng tính… Và chương trình đã được sắp xếp để đón một cuộc “cao đàm khoát luận” chưa từng có và chưa thể kết luận.
Ý định của Thường vụ Hội là như vậy, nhưng trên ba trăm người tham gia học tập đã dần dần từ thảo luận nguyên tắc sáng tác chuyển sang kiểm điểm phong trào, đem lý luận đối chiếu với thực tế, liên hệ bản thân cũng có, nhưng chủ yếu là liên hệ lãnh đạo.
Mà phê bình lãnh đạo ngày nay, nhờ có ảnh hưởng của Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, thường là rất mạnh bạo chứ không còn e dè, quanh co như cái thời phục tùng mù quáng hoặc có thắc mắc thì trước mặt cả nể, kể lể sau lưng nữa. Anh chị em đã phát huy tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, đem hết nhiệt tình cách mạng ra mà nói thẳng, nói thật, nói hết. Thế là việc học tập trở nên sôi nổi, nhất là ở bước cuối thì người ta có thể nói đến một không khí bừng bừng đấu tranh, làm cho chẳng những giới văn nghệ như cựa mình một cái thực mạnh mà nhiều ngành khác ở thủ đô cũng như thấy rung động lây.
Qua những sự việc mà anh chị em phát hiện cũng như qua những ý nghĩ, tình cảm mà anh chị em bộc lộ, chúng ta đã thấy phong trào văn nghệ trong sáu bảy năm nay đã có những sai lầm nghiêm trọng về mặt lãnh đạo. Quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do sáng tác đã bị vi phạm một cách có hệ thống.
Nói chung, ở hầu hết các Tổ, anh chị em đã chú ý phân tích hai hiện tượng song song: Trong quá trình phát triển, văn nghệ mới Việt Nam có bị kìm hãm. Rồi anh chị em đặt câu hỏi: Cái gì kìm hãm nó? Ai kìm hãm nó? Và nó đã bị kìm hãm như thế nào?
Những câu trả lời rất nhiều và bao gồm đủ mọi khía cạnh, song có điều rõ rệt nhất là không có một ai coi đó là do những khó khăn tất yếu của lịch sử. Hai nhận định “Đảng đúng nhưng cán bộ sai” và “chính sách đúng nhưng thi hành sai” vừa mới được đưa ra đã bị phản đối kịch liệt.
Nhờ có sự sáng suốt ấy, anh chị em đã không bị lạc vào con đường vòng quanh vô bổ là kiểm điểm tác phong của người này, cấp nọ nó chỉ cành lá của vấn đề mà quên cái then chốt là kiểm điểm đường lối và chính sách nó mới là cái gốc của vấn đề. Nói khác ra, anh chị em đã thẳng thắn xây dựng Trung ương Đảng về quan niệm, tư tưởng và chủ trương lớn trong văn nghệ chứ không làm cái việc vụn vặt, hời hợt là đưa ra một số sự việc xấu, một số người làm bậy để “tố khổ”.
Ngay ở phần chỉ trích những sai lầm của bản thân cán bộ phụ trách, anh chị em cũng tìm ra được nhân tố quyết định là bè phái chứ chẳng mất thì giờ đánh vào hai bung xung là “quan liêu” và “mệnh lệnh”.
Cuối cùng, một bản tham luận của Tổ văn 2 do anh Nguyễn Hữu Đang đọc vào buổi tổng kết 26-08-56 đã thâu tóm được những ý kiến chính của anh chị em trong ba điểm dưới đây:
- Đường lối lãnh đạo văn nghệ của Trung ương Đảng hẹp hòi, gò bó do nhận thức không đúng về mối quan hệ giữa chính trị và văn nghệ;
- Trung ương Đảng chưa có một chính sách cụ thể hẳn hoi về văn nghệ;
- Tổ chức (bộ phận trực tiếp lãnh đạo văn nghệ) không hợp lý và không trong sạch, nguy hiểm nhất là có tính chất bè phái.
Buổi tổng kết phản ánh cuộc đấu tranh nội bộ trong ngành văn nghệ đã lên tới độ cao. Cho nên qua lời tổng kết của anh Nguyễn Đình Thi và lời tự kiểm thảo sơ bộ của anh Tố Hữu, mặc dầu chưa đúng mức, chúng ta thấy bộ phận lãnh đạo cũng đã phải thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng và hứa hẹn sửa chữa.
Đề đẩy mạnh đấu tranh, Tổ 2 đưa ra bốn đề nghị:
- Thường vụ Hội sẽ bố trí cho anh chị em học tập nữa, hướng vào yêu cầu của Đại hội sắp tới là sửa đổi đường lối và chấn chính tổ chức;
- Bổ sung vào Thường trực Ban trù bị Đại hội một số đại biểu do anh chị em bầu ra. Số đại biểu này sẽ đông hơn số người chỉ định trước. Đồng thời nếu trong Ban Trù bị có những người bị anh em chỉ trích nhiều thì cũng nên rút lui;
- Giới văn nghệ được gặp đại diện Trung ương Đảng để trực tiếp phản ánh tình hình phong trào và đề nghị một số chủ trương đặng đổi mới văn nghệ. Đồng thời anh chị em sẽ được Trung ương Đảng cho biết rõ chủ trương của Trung ương từ trước đến nay về văn nghệ để anh chị em căn cứ vào đó mà tiếp tục tiến hành việc kiểm điểm lãnh đạo cho được sát đúng;
- Mở rộng tự do ngôn luận bằng cách Thường trực Ban trù bị Đại hội (đã được bổ sung) sẽ cùng với Thường vụ Hội giúp đỡ cho việc ra thêm báo của anh chị em được dễ dàng. Nhà xuất bản Văn nghệ từ nay đến Đại hội phải dành ưu tiên cho những tài liệu của anh chị em bàn về lý luận hay tổ chức văn nghệ.
X.Y.Z.
Thuốc đắng dã tật, nói thật mất lòng
Các bạn đã đọc các sáchSửa đổi lối làm việc,Thuốc đắng giã tật v.v… chắc các bạn cũng biết cụ X.Y.Z. là người chí công vô tư bao giờ cũng nói thật, nói thẳng, nói hết. Chúng tôi xin giới thiệu một đoạn văn dưới đây của cụ nói về phê bình:
Thuốc đắng dã tật
Nói thật mất lòng
Có những cán bộ tưởng rằng: nếu công khai phê bình những khuyết điểm của mình, thì sẽ có hại vì:
- Kẻ địch lợi dụng để phản tuyên truyền;
- Giảm bớt uy tín của đoàn thể và chính quyền;
- Làm mất thể diện của cán bộ đã phạm khuyết điểm ấy;
- Chỉ phê bình qua loa ở nội bộ là đủ rồi.
Nếu không muốn để kẻ địch phản tuyên truyền thì không gì hơn là tránh các khuyết điểm, sửa chữa khuyết điểm.
Một khi đã phạm đến khuyết điểm, thì dù mình muốn bưng bít, người ta cũng biết. Phải nhớ câu tục ngữ “sừng có vạch, vách có tai”.
Một đoàn thể hoặc chính quyền mà che giấu khuyết điểm của cán bộ mình, là một đoàn thể hoặc chính quyền yếu ớt, thoái bộ. Đoàn thể và chính quyền có can đảm vạch rõ khuyết điểm của cán bộ mình, có phương pháp sửa chữa cho cán bộ, thì chẳng những uy tín không giảm mà lại thêm cao.
Cán bộ nào không dám công khai thừa nhận khuyết điểm của mình, e sợ lời phê bình của đồng sự và của nhân dân, không có can đảm sửa chữa khuyết điểm thì những người đó không xứng đáng là cán bộ.
Việc phê bình phải từ trên xuống và từ dưới lên. Cấp trên phê bình, chưa đủ. Đồng chí, đồng sự, phê bình chưa đủ. Phải hoan nghênh quần chúng phê bình nữa thì sự phê bình mới hoàn toàn…
Hồi ký của Hoàng Cầm
Tiến tới xét lại một vụ án văn học: Con người Trần Dần
Lời toà soạn
Ít lâu nay, nhất là trong giới văn nghệ, vấn đề Trần Dần được nhiều người nhắc tới. Đó không phải là chuyện ngẫu nhiên, mà chính là vì vấn đề Trần Dần không còn là một vấn đề riêng của anh hay của một số người nào, mà là vấn đề của chung, có liên quan tới quyền chính đáng tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do sáng tác của tất cả mọi người.
Theo tinh thần đó, chúng tôi đăng bài này.
Lần đầu tiên tôi biết Trần Dần là trong một trại hè của các đoàn văn công quân đội năm (19…) Dáng người thấp, hơi thô, tay chân chắc nịnh, lúc nói chuyện thường ồn ào, giọng cười thẳng thắn, ròn rã. Đôi mắt xếch với cặp mày rậm làm cho khuôn mặt anh dữ tợn, nhưng đến khi anh há mồm ra cười thì trông lại như một đứa trẻ con.
Tôi biết tiếng anh từ lâu - Ở bộ đội Sơn La, từ đầu năm 1947, nổi tiếng có một anh Trần Dần nào đó thường vẽ và làm thơ có nhiều cái rất lạ, anh em văn nghệ xung quanh thì rất thích nhưng đồn rằng bộ đội thì không hiểu và một số cán bộ chính trị ở đơn vị thì lấy làm bực mình.
Tới trại hè năm 1951, các đoàn văn công nỗ lực tập luyện để phục vụ một chiến dịch lớn. Trần Dần phụ trách huấn luyện cho mấy trăm anh chị em: sáng tác đạo diễn và diễn viên. Trong bóng rợp của một rừng nứa, giọng anh rủ rỉ như lời tâm sự, giảng về văn nghệ nhân dân. Văn nghệ do dân, vì dân, có Đảng lãnh đạo. Giọng anh thấm thía từng ngày lên lớp. Mấy trăm anh chị em lần đầu tiên được học một tài liệu dài đến gần hai tháng, đều vui trong lòng như một người đi trong đêm rét, chợt nhìn thấy lửa ấm của một túp nhà. Học xong tài liệu Văn nghệ nhân dân, anh chị em say sưa công tác hơn vì người giảng viên Trần Dần đã thổi vào tâm sự mọi người một cái tự hào. Đến bây giờ tôi còn nhớ hai câu thơ của Lỗ Tấn mà Trần Dần đọc ra để dẫn chứng cho tài liệu:
Hoành mi lễnh dối thiên phu chỉ
Phủ thủ cam nhi nhụ tử ngưu
Học xong phần lý luận có thể nói hầu hết anh chị em văn công đều yêu mến Trần Dần như một người bạn từ lâu lắm. Những người có chuyện riêng gỡ mãi không ra, đều tìm đến hỏi Trần Dần. Một anh sắp lấy vợ, một chị bị ép chồng, một diễn viên già có vợ ở vùng tạm chiến, đều đến tìm Trần Dần – không phải là một câu trả lời thoả đáng – nhưng chính là một sự an ủi, một câu nói chí tình, và để nghe ở anh cái giọng cười quen thuộc, giọng cười vô tư, rất yêu đời.
Dần dần anh chị em gọi Trần Dần là “thày tướng” và lắm khi tin anh như một người đau khổ ngày trước tin số mệnh, đã đặt cho anh một cái tên “Trần Dần cốc tử”.
Hồi ấy Trần Dần yêu một nữ diễn viên văn công. Vốn tính cương trực, lỗ mãng, anh không biết cách nào khéo léo để lấy lòng yêu của người đàn bà. Anh không biết nói đẹp, nói hay, chỉ non thề bể, xem lá rụng, hoa tàn để vừa ý một cô gái rất đỏng đảnh. Gặp cô, anh “tấn công” luôn, rất thô kệch. Cô ấy sợ, và chạy trốn. Anh đuổi không kịp.
Rồi anh thất vọng to, và cũng biết khóc. Một lần bắt chợt anh ôm đầu khóc, tôi kéo mấy anh bạn vào xem: “Vào đây xem voi chảy nước mắt các cậu ơi!” Mãi về sau hình ảnh cô gái đó đột hiện lên, tươi roi rói, đẹp và anh dũng trong những trang đầy nhiệt huyết của cuốn truyện Người người lớp lớp.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Trần Dần thức thâu đêm suốt sáng để viết bản thảo lần thứ ba cuốn truyện về những người đã tạo ra chiến thắng lịch sử lớn lao đó. Dạo ấy tôi thấy anh gầy rộc đi, mắt trũng trong một quầng thâm rộng. Nhưng mắt anh có những tia sáng mới. Anh biết anh đang luyện ngòi bút cho thật sắc sảo, “có sác sảo mới diễn tả hết con người và cuộc đời”. Anh rất ghét lối viết dễ dãi, tạm bợ, tả bộ đội chỉ thấy súng nổ, lửa bốc, chỉ thấy uỳnh oàng mà chẳng thấy người. Anh gọi những loại văn đó là: văn chương khói lửa mịt mù. Nhìn vào những trang sách, độc giả tìm kiếm mãi mà chưa thấy một người, chưa thấy việc đời, chỉ thấy lổn nhổn những bộ máy lắp đi lắp lại và một lô danh từ, hình ảnh trống rỗng, thùng rỗng kêu to.
“Nhưng cái hướng chính của tôi không phải là tiểu thuyết. Hướng đi của tôi là thơ. Tôi sẽ tìm tòi trong thơ và cố gắng tạo ra một lỗi diễn tả riêng biệt – không phải lập dị- nhưng độc đáo.”
Trần Dần đã nói với tôi như vậy sau khi anh viết xong Người người lớp lớp. Hồi đó, anh có đưa tôi xem tập thơ làm đã lâu: Tiếng trống tương lai.
Đọc lần đầu tiên, tôi không thích. Tôi cho Trần Dần là lập dị. Đọc lần thứ hai, thứ ba, tôi vẫn không thấy thích, nhưng dần dần tìm ra được nhiều cái mới lạ, khác với nếp cũ thông thường. Tuy nhiên, tôi vẫn không thấy thích cái lối thơ ấy. Dần dà đọc nhều bài thơ anh làm về sau, tôi càng thấy “cái anh chàng này khác thường”. Khác thường theo ý tôi chưa chắc là đã hay. Dù sao do thơ Trần Dần, tôi suy nghĩ nhiều về trách nhiệm người làm thơ trước cuộc đời: đi sâu vào đời sống có suy nghĩ của con người, tìm cách diễn tả riêng, tạo ra một thế giới riêng cho mình. Tôi thấy thơ Trần Dần có phần đau xót, u ám, nhiều khi rất buồn, vừa cộc cằn lại vừa có cái tự hào sôi nổi, nhiệt tình thẳng thắn, táo bạo.
Nhưng giọng thơ của anh, vẫn không lọt được vào tâm hồn tôi - một người làm thơ theo một dòng khác. Dù sao tôi vẫn trân trọng và quý mến những cái tìm tòi của Trần Dần trong thơ. Tôi cũng nghĩ như anh thường nói: Mỗi người làm một kiểu. Có thơ như tiếng sáo, có thơ như tiếng kèn, có thơ như tiếng trống. Đừng bắt thơ ai phải giống ai. Có thế mới thành một cuộc “hoà âm” lớn của thi ca. Độc giả thơ cũng ví như người xem xiếc. Có người thích kiểu tung cầu, kiểu đứng trên lưng ngựa. Lại có người thích xem dạy hổ, leo dây. Nhiều khi sợ đến rùng mình, nhắm mắt. Mỗi dòng thơ thích hợp cho một loại độc giả. Có thế mới trăm hoa đua nở được. Gò bó theo ý thích chủ quan của một vài người, thơ sẽ thành hoa giấy đóng hộp bày trong tủ kính.
Hồi đó, tôi chưa biết Mai-a-cốp-sky. Khi hoà bình lập lại, về Hà Nội, đọc Mai-a, tôi thấy hơi thơ và cách diễn tả của Trần Dần có nhiều chỗ giống Mai-a. Tôi trách anh:
"Sao cậu lại bắt chước Mai-a? Bắt chước thì không thể nào độc đáo được.”
Trần Dần nói:
“Tâm hồn có giống nhau thì mới ảnh hưởng sâu sắc được chứ! Mình bị ảnh hưởng Mai-a thực, nhưng cái chính là mình chịu ảnh hưởng thực tế cách mạng Việt Nam. Do đó mình sẽ dần trở thành mình.”
Viết xong Người người lớp lớp, Trần Dần được phân công viết thuyết minh cho cuốn phim Chiến thắng Điện Biên Phủ và anh được cử sang Trung Quốc làm nhiệm vụ đó. Nhưng đi kèm bên cạnh anh là một cán bộ chính trị có quyền tối hậu quyết định. Anh cán bộ này, đáng lẽ phạm vi công tác là góp ý kiến vào nội dung bản thuyết minh và bảo đảm cho nó không phạm những sai lầm về đường lối chính sách của Đảng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, thì đã lợi dụng uy quyền của mình đi quá xa vào phạm vi văn học, bắt Trần Dần phải viết như ý mình, từng câu từng chữ, lạm dụng danh từ chính trị khô khan rỗng tuếch để nhét cho kỳ được vào bản thuyết minh.
Đầu tiên, Trần Dần rất phục tùng người cán bộ chính trị khi dự thảo thuyết minh, và hoàn toàn theo sát những vấn đề chính trị sẽ đặt ra khi thuyết minh. Đến khi thấy anh cán ấy “lên gân” và thọc bàn tay cứng lạnh vào phạm vi viết văn thì Trần Dần bắt đầu có phản ứng. Nhưng anh vẫn bình tĩnh, đề nghị cấp trên xét lại vấn đề. Đến khi “anh cán bộ vẫn là tối hậu quyết định cả từng câu chữ” thì Trần Dần thôi không làm công việc đó nữa, nhường cả phần “văn chương” cho đồng chí cán bộ.
Sau việc này sự mâu thuẫn giữa văn nghệ sĩ và cán bộ chính trị bắt đầu phát triển khá mạnh trong con người Trần Dần. Anh vẫn cố dẹp đi, nhiều lúc anh thẫn thờ ít cười ít nói nhưng vốn là con người chân thực – cái chân thực nhiều khi đến thô lỗ - lắm khi anh đã cục cằn, thốt ra những lời gay gắt thiếu lịch sự. Anh thường bàn với anh em, khi thấy nhiều thắc mắc quanh việc này: “Ôi già! Cái con số cán bộ chính trị bóp chết nghệ thuật thì không ít đâu. Làm thế nào để Trung ương Đảng biết rõ tình hình và đề ra những chính sách cụ thể cho văn nghệ sĩ, đó là nhiệm vụ của mỗi đứa chúng mình. Tin Đảng, yêu Đảng, đi theo Đảng đến cùng thì phải có phần góp ý kiến cho Đảng. Đảng cần nhiều khối óc, cần nhiều bàn tay, cần nhiều trái tim, chứ Đảng không cần đến những con người máy, giật thế nào làm thế ấy”.
Đó là động lực thúc đẩy Trần Dần, rồi đến Tử Phác, Đỗ Nhuận, Hoàng Cầm, Trúc Lâm, Hoàng Tích Linh, và rất đông anh em công tác văn nghệ trong bộ đội dự thảo ra bản “Đề nghị Chính sách Văn nghệ” trình bày với cấp trên hồi đầu năm 1955, tại Hà Nội.
Bản dự thảo sắp được thông qua. Một vài cán bộ cao cấp trong quân đội tỏ ý tán thành những điểm chính trong bản đề nghị đó, và nhất là hoan nghênh tinh thần xây dựng của bản đề nghị.
Trong thời gian bản dự thảo còn bàn đi bàn lại, thì bỗng có một người đàn bà đến rất nhanh chóng trong đời sống của Trần Dần. Một chị ngoài 20 tuổi, đi đạo, ở Hà Nội mới giải phóng. Trần Dần gặp người đó và hai người yêu nhau. Lúc mới yêu người ta dễ say. Trần Dần lại là người chưa từng được yêu bao giờ, dù anh đã gần 30 tuổi. Anh mê man với mối tình đó buổi đầu và đã đôi ba lần làm trái với nội quy sinh hoạt của bộ đội. Cái tật xấu nhất của Trần Dần là bừa bãi trong sinh hoạt: quần áo, sách vở, vứt lung tung, bạ đâu ngủ đấy. Trong sự giao thiệp với người đàn bà này, anh cũng rất bừa bãi. Mới quen lần đầu đã nghiễm nhiên vác ba lô đến ở chơi nhà người ta vài ngày, rồi cười đùa ầm ỹ. Anh đã sấn sổ đòi tình yêu. Người thiếu nữ có lẽ vì sợ đôi mắt xếch đã đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác, và đến lúc nhượng bộ cuối cùng: chị đã trao cả cuộc đời mình cho anh. Nhân lúc đang ốm yếu, được phép nghỉ, anh đã đến nhà người yêu ở hàng nửa tháng liền. Và anh đề nghị cấp trên cho anh được cưới.
Một người con gái mới lớn, đã sống trong không khí tôn giáo, sống trong vùng tạm chiếm lâu năm, lại có được uỷ quyền cho thuê mấy cái nhà, bây giờ bỗng dưng yêu một anh cán bộ quân đội. Vấn đề gì đặt ra đây?
Trần Dần vẫn yêu đắm đuối và ngang ngạnh. Anh đề nghị đơn vị đi sát giúp đỡ anh. Lý lịch người thiếu nữ, theo anh, không có gì là mờ ám. Một công dân còn trẻ, chưa hiểu việc đời nhiều lắm, trình độ chính trị rất thấp, nhưng biết yêu lá cờ vinh quang của Tổ quốc, ngày giải phóng thủ đô, cũng chạy ra đường vẫy quân đội, miệng hoan hô không biết mỏi.
Trần Dần ngày càng không thể dứt ra được tình yêu dù anh biết mối tình đó sẽ gặp nhiều trắc trở. Quả nhiên, không ai “tán thành” tình yêu của anh, trừ một vài người bạn thân. Có người lên giọng đạo đức: Thằng Dần sa ngã rồi. Mới về Hà Nội đã hư hỏng, hoà bình chủ nghĩa thật.
Có người nghiêm nét mặt, đề cao cảnh giác: Cẩn thận! Kẻo sa lưới địch! Nó đang âm mưu tấn công vào hàng ngũ ta.
Tình yêu của Dần với cô gái Hà Nội đã làm cho anh em chung quanh bàn tán sôi nổi. Nhưng không ai chịu khó đi tìm chân lý. Những câu chuyện nói cho vui mồm, những lời dèm pha, chế giễu, những “nhận định” cao siêu, những “lập trường” “quan điểm” giai cấp tính, tư tưởng tính, “tư sản” và “vô sản” v.v… Người ta rút những câu to lớn nhất trong hàng chục pho sách chính trị để quy kết cho một mối tình.
Trần Dần đã gục mặt vào tay đau đớn. Tôi đã gặp anh ngồi lặng hàng giờ trong một căn phòng quần áo bàn ghế bừa bãi ở nhà người thiếu nữ đó. Giữa anh và chị, có một niềm tủi cực, cay đắng, xót xa. Chị đã thôi không trang điểm, xếp áo màu vào tủ, có cái thì đem cắt ngắn, nhuộm nâu. Đã tan đi từ lâu lắm tiếng cười ròn rã. Trong giọng nói đã thấy ngấn nước mắt. Có vài căn nhà được uỷ quyền cho thuê, chị đã nghe lời anh đem giao lại cho Ủy ban nhà cửa. Đầu tiên, khi nghe người yêu bàn việc đó, chị K. ngạc nhiên mắt đen tròn mở to:
“Thế rồi sống bằng gì hả anh? Sao lại giả nhà cho Chính phủ hở anh? Chính phủ có kết tội những người có nhà cho thuê không hở anh?”
Rất nhiều câu hỏi. Anh đã bàn:
“Không! Chính phủ vẫn bảo đảm cho người có nhà cho thuê. Nhưng chúng mình phải làm lấy mà sống. Không nhờ vào đâu cả, ngoài bốn cánh tay mình, đủ sống thì thôi.”
Trần Dần hết sức giải thích cho người yêu và hướng người yêu vào cong đường “làm lấy mà sống” “đừng nhờ vả ai”. Hình ảnh người con gái đi tìm việc làm trong mưa, về sau tôi lại gặp rất đau xót, trong bài thơ “Nhất định thắng” in trong tập Giai phẩm mùa Xuân 1956.
Mối tình đó kéo lê những ngày lo sợ, buồn phiền. Trần Dần không ngờ yêu lại khổ đến thế này. Cùng một thời gian đó, bản “Đề nghị Chính sách Văn nghệ” thảo luận chưa xong. Giời sang hè, mùa mưa tầm tã. Trần Dần và người yêu vẫn sống trong một góc nhà tối thiếu ánh sáng. Bữa cơm không vui. Bụi phố Sinh Từ rắc vào nhà như sương, bụi phủ trắng mặt bàn ghế. Ăn vội vàng, Trần Dần lại về đơn vị để rồi lại được nghe những lời phê phán, những tiếng xì xào. Và người thiếu nữ lại chân đất, áo ngắn, đi tìm việc làm, có hôm từ sáng đến tôi mới về:
Em đi trong mưa… cúi đầu… nghiêng vai
Đến ngày họp bàn về dự thảo chính sách, Trần Dần được anh em cử ra trình bày. Nguyện vọng của bao nhiêu văn nghệ sĩ trong quân đội. Làm thế nào để sáng tác hay, phục vụ được sâu sắc. Anh nói say mê, nhiệt tình. Trong cách nói nhiều khi bốc. Mặt anh khi đỏ gay, khi tái lại:
“Giả văn nghệ cho anh em văn nghệ sĩ! Phân rõ ranh giới giữa cán bộ chính trị và văn nghệ sĩ. Văn nghệ sĩ phải có sự lãnh đạo của Đảng, nhưng không thể biến thành cái máy v.v…”
Đột nhiên trong không khí hào hứng của gần ba mươi anh em văn nghệ sĩ đang sẵn sàng cởi mở hết để xây dựng một trong những chính sách lớn của Đảng, bỗng có một câu quật lại:
“Tinh thần bản đề nghị này chính là một thứ tư tưởng tự do của tư sản. Nó chứng tỏ tư tưởng tư sản đã bắt đầu tấn công vào các đồng chí!”
Giá câu nói ấy ở mồm một người thường thì cũng sẽ thường thôi. Nhưng lại ở một cán bộ có đủ thẩm quyền xét lại hay bác bỏ những đề nghị của văn nghệ sĩ, thì bắt đầu có một sự động cựa lớn. Những người trước kia tán thành bản dự án thì bắt đầu trở nên hoang mang.
Thêm vào đó, câu chuyện tình chưa được công nhận. Bóng người con gái hiền lành, hay khóc, người yêu của Trần Dần bỗng trở thành một thứ gì ám ảnh: Một bóng ma đáng sợ. Người nào muốn tỏ ra “lập trường tư tưởng vững chắc” không bị “tư tưởng tư sản tấn công” đều phải ghét người con gái ấy đi. Tình cảm day dứt đến cực độ, như một cành cây non bị quật lên quật xuống trong trận bão khổng lồ, Trần Dần không còn biết bộc bạch cùng ai. Nói gì bây giờ cũng khó lọt qua tai những người “vững lập trường lòng lim dạ sắt”. Trần Dần gần như phát điên. Hết đứng lại ngồi, lại chạy ra phố, lại về đơn vị, ở đâu anh cũng thấy như có những dây trói vô hình mỗi ngày một thít chặt vào trái tim anh.
Cùng một thời gian ấy, những sự kiện lớn trong phong trào văn nghệ dồn dập tới: Phê bình tập thơ Việt Bắc, Trần Dần nhận định tập thơ Tố Hữu nhỏ bé nhạt nhẽo trước cuộc sống vĩ đại và mắc một sai lầm nghiêm trọng là sùng bái cá nhân, thần thánh hoá lãnh tụ.
Và truyện Người người lớp lớp phát hành hàng vạn cuốn, được hoan nghênh. Và cuộc phê bình Vượt Côn Đảocũng sôi nổi không kém cuộc phê bình Việt Bắc. Trần Dần viết một bài phê bình Vượt Côn Đảo giọng châm biếm cục cằn, khiến nhiều người phản đối. Trong một không khí hết sức căng thẳng của văn nghệ bấy giờ, lại bị quy kết là thoát ly chính trị, tư sản tấn công, hoà bình chủ nghĩa v.v… rất nhiều anh em bị cuốn vào một chỗ mịt mù, chân lý gần như bị ngập bởi các thứ thành kiến, chụp mũ hung hăng.
Con giun bị xéo mãi cũng quằn lên. Trần Dần có lúc oang oang ăn to nói lớn, có lúc tranh luận sôi nổi, có lúc nóng nảy văng tục, có lúc lầm lì ngồi một xó, khi thì ngâm thơ giọng buồn thấm thía, khi thì cao đàm hùng biện, khi thì lại vò đầu bứt tóc, nhiều lúc ứa nước mắt, ôm mặt nằm cò queo một mình, có lúc nấc lên, đầu bù tóc rối.
Tấn thảm kịch đã đi đến một chỗ thắt nút quằn quại. Người yêu của anh bắt đầu có mang. Và đột nhiên anh bị giữ ở đơn vị để kiểm thảo cùng với Tử Phác, quanh quẩn trong một gian phòng. Một tháng, rồi hai tháng, ba tháng. Những ngày đầu tiên, như cơn sốt rét đột ngột, anh kêu lên:
“Tôi có tội gì? Tôi có tội gì mà giữ tôi ở lại?” Người yêu anh bỗng thấy anh không về nhà nữa. Nhưng trận ốm nghén đầu tiên đã quật chị xuống như một con bệnh nặng. Mặt choắt lại, người chỉ còn da với xương. Một mình ở một căn nhà bừa bộn với một con chó gầy còm, không cha mẹ, không anh em, không bạn bè, chỉ có bà hàng xóm bán guốc thỉnh thoảng chạy đi chạy lại nấu cho bát cháo. Tôi đến gặp chị mếu máo, trông già đi hàng chục tuổi. Chị hỏi:
“Sao anh Dần không về với tôi nữa hở anh?”
Tôi giải thích: “Anh ấy bận công tác ít lâu thôi. Chị đang ốm, có cần gì, chúng tôi sẽ giúp chị.”
Chị oà lên khóc:
“Bộ đội có cho tôi lấy anh ấy không?”
Tôi lại khuyên nhủ:
“Có chứ! Ai cấm đâu!”
Chị bỗng khóc to hơn:
“Phải rồi, không ai cấm tôi và anh ấy lấy nhau. Bộ đội người ta không cấm nhưng anh Dần bỏ tôi rồi! Tôi bụng mang dạ chửa thế này, anh ấy bỏ tôi trốn rồi!”
Rồi chị gào lên:
“Bạc như vôi ấy giời ơi! Anh ấy không muốn ăn ở với tôi nữa thì cứ bảo tôi biết, việc gì phải lấy cớ công tác này công tác nọ.”
Tôi thấy chua chát lạ lùng, nhưng chỉ nói tránh đi:
“Anh ấy bận công tác thật đấy mà!”
Chị vẫn một mực:
“Anh ấy nói dối! Cả anh nữa cũng nói dối. Thôi tôi chết đi! Tôi chết đi cho anh ấy đỡ bận! Mà đỡ phiền cả các anh…”
Một số bạn thân của Trần Dần phải cắt nhau đến canh ở đấy, giải thích an ủi, giúp đỡ một người con gái mới yêu lần đầu mà đã bị dao cắt ruột gan.
Trong những ngày u uất đó, anh không được biết tin người yêu, ngồi vò võ trong phòng kiểm thảo. Qua lúc đầu tiên đột ngột, tâm trí anh dần dần bình tĩnh lại.
Ba tháng hết nằm lại ngồi, anh đã trải qua một đoạn đời đau khổ. Nhưng ở Trần Dần luôn luôn có tình yêu sự sống rất mãnh liệt nó đã ngăn không cho anh đến chỗ huỷ hoại cuộc đời còn rất trẻ của mình. Anh viết bài thơ “Nhất định thắng” (vào khoảng tháng Tư 1955).
Lần đầu tiên tôi vào thăm anh, với một món quà nhỏ: Một túm nhãn tôi mua ngoài phố. Anh vồ lấy ăn ngấu nghiến rồi cười oang oang: “Thi đua với các cậu làm thơ nhé!”.
Thấy tôi rơm rớm nước mắt, anh bỗng hạ thấp giọng:
“Đừng buồn cho mình. Mình cũng nhiều khuyết điểm lắm: có tự kiêu, có nóng nảy, có tự do vô kỷ luật thật. Nhưng không bao giờ không trung thành với Đảng, dù bị mắc tiếng oan, dù bị kỷ luật. Và mình tin những cái độc đoán của một vài cá nhân rồi đây sẽ không còn nữa. Đảng là một khối sáng suốt. Tương lai chúng mình, Đảng sẽ đảm bảo, dù bây giờ Đảng có thể chưa hiểu mình.”
Anh lại đọc Mai-a, đọc Sê-cốp, Goóc-ki. Anh lại nằm nghiền ngẫm Đất vỡ hoang và Trên sông Đông êm đềm của Sô-lô-cốp.
Cánh cửa có chấn song sắt khép lại, tôi lùi ra và cảm thấy gian phòng kia không còn chật hẹp, tù hãm nữa đối với một con người đầy lòng tin như Trần Dần.
Hết 3 tháng kiểm thảo, anh lại được về với người yêu. Chị ấy lúc đầu còn giận dỗi:
“Thôi anh đi đâu thì đi, mặc xác tôi.” Nhưng chẳng bao lâu, mắt lại sáng, tiếng cười lại trở về trong căn nhà bề bộn những bàn ghế quần áo và ống chỉ, dao kéo. Chị đã bắt đầu may sẵn áo cho đứa con đang cựa trong bụng. Chị đã xin được việc làm:
Trời đã thôi mưa… thôi gió
Đã thấy nắng lên trên màu cờ đỏ
Rồi Trần Dần đi tham quan Cải cách Ruộng đất. Bài thơ “Nhất định thắng” gửi Lê Đạt giữ từ lâu, anh cũng gần như quên đi, óc còn mải nghĩ về những mặt khác của cuộc sống để chuẩn bị cho những bài thơ khác sẽ ra đời.
Đã gần đến Tết ta. Một số anh em đã thấy say sưa sáng tác. Tôi chạy đi chạy lại gom góp sáng tác của dăm ba người bạn và nghĩ rằng phải xuất bản một tập văn thơ mùa Xuân để đóng góp với mùa xuân mới của văn nghệ đang sắp nở.
Và nhận thấy cái kỷ luật “cấm sáng tác” do một vài người công bố đối với Trần Dần là một điều vô lý, sai chính sách của Đảng, và đang lúc Trần Dần đi công tác xa xôi không biết anh có sáng tác gì mới không, tôi bèn tìm lại bài thơ "Nhất định thắng" và cho đăng vào cái Giai phẩm mùa Xuân mà tôi là người soạn bài.
Cứ để bông hoa đó nở thì đã hại gì ai mà có thể có lợi. Nhưng hoa chưa kịp nở, thì đã bị dập vùi. Giai phẩm mùa Xuân bị kết tội, bài thơ "Nhất định thắng" bị kết tội. Người ta cho rằng cái bè phái độc quyền trong giới văn nghệ bị công kích (bắt đầu từ cuộc phê bình thơ Việt Bắc) đã tìm cách trả thù:
Trần Dần, Tử Phác đều bị tống giam.
Cái nút thứ hai khốc liệt hơn, của tấn thảm kịch Trần Dần.
Những ngày mùa xuân 1956, tôi đau đớn như có búa nện vào óc, có đinh đóng vào tim, và có dây trói chặt vào chân tay.
Mùng hai Tết, tôi ăn bữa cơm cuối cùng với Trần Dần. Giữa hai tợp rượu, đã thấy những cơn bão đe doạ, mà lần này chắc ghê hơn lần trước. Chị K. không biết gì vẫn vui vẻ ngồi bóc bánh, rồi xếp dọn ba lô cho chồng để anh ăn xong thì lại đi công tác.
Không khí văn nghệ như sắp sửa có trận bão. Không biết từ đâu cái tin “Trần Dần phản động” “Trong Giai phẩm có mấy tên phản động” bỗng truyền ra rất nhanh. Những tin không hay dồn đến, bổ vây tôi và anh Trần Dần còn đang ăn dở miếng bánh chưng Tết. Chị K. tái mặt, để rơi đôi đũa, nước mắt đã vòng quanh:
"Thế là thế nào hả các anh? Phen này lại bị bắt nữa thì tôi sống thế nào được? Các anh rủ nhau làm những chuyện gì mà khổ sở thế không biết!"
Trần Dần cũng tái mặt, anh cắn chặt môi, xốc ba lô lên vai, an ủi vợ:
"Em đừng lo. Tin đồn bậy bạ đấy thôi. Anh đi công tác đây, gần đến tháng đẻ, em đừng lo nghĩ gì cả.”
Nhưng chị K. không thể bình tĩnh được. Chị tiễn chồng ra cửa khóc oà lên:
“Anh ơi… Anh có về nữa không, anh ơi!”
Cổ tôi bỗng nghẹn nước mắt. Tôi cố cười:
“Ồ cái chị này lẩn thẩn. Thôi để anh ấy đi nào…”
Trần Dần ngửng mặt bước đi, ruột tôi bỗng thắt lại: Chuyến này mà nó có làm sao thì chỉ tại mình. Đang tự dưng bày ra cái Giai phẩm. Tuy chưa phải là những sáng tác xuất sắc, nhưng ít ra nó cũng nêu được vấn đề gì. Có vấn đề xã hội trong thơ Văn Cao, có vấn đề chống công thức trong thơ Lê Đạt. Và tuy tôi không hoàn toàn thích bài thơ “Nhất định thắng” của Trần Dần, tôi cũng đưa in, vì tôi thấy ít ra nó cũng khác với lối làm thơ một chiều. Dù sao thì cũng có ít ra vài ba con cá quẫy mạnh trên mặt ao tù bấy lâu phẳng lặng.
Từ những ngày Tết mưa lã chã, cái bè phái độc quyền trong văn nghệ bắt đầu họp đứng họp ngồi để tìm cách đối phó với cái Giai phẩm. Một không khí ngạt thở đè nặng lên những anh em có bài trong tập sách đó. Rồi đến một đêm, bài thơ “Nhất định thắng” bị đem ra luận tội.
Y như một xóm đang đêm tối bỗng có tiếng kêu “Cướp! Cướp! Cướp đã đến”. Lập tức mọi người mắt nhắm mắt mở, vớ lấy giáo mác, gậy gộc, chạy xô ra ngõ, gặp một cái bóng đen. Cả làng hầm hè đánh. Roi gậy, giáo mác, gạch củ đậu thi nhau nện xuống cái bóng người. Một trận đòn nhử tử. Cái tâm lý đánh cướp này là tâm lý chung của nhưng người muốn bảo vệ nhà cửa, xóm làng của mình. Cái bóng đen gục xuống. Mọi người lại về nhà đi ngủ. Sáng hôm sau, mặt trời mọc, đi ra ngõ, thì ra cái “bọn cướp” đó chỉ là một anh đang đêm nực nội mò đi hóng mây gió.
Những người đã cầm gậy đánh, đều rất có lý:
“Hô lên là cướp thì ông đừng giã bỏ mẹ đi à?”
Họ là những người yêu làng yêu nước, họ không có lỗi gì. Nhưng lỗi ở những ai hô cướp?
Kẻ nào hô ra hai tiếng “phản động” đầu tiên để gọi cả làng ra đánh chết Trần Dần?
Tôi cố suy mãi, lòng như dao chém. Thôi thế là đêm luận tội đã đóng án tử hình xuống một bài thơ; xuống một con người, đồng thời là một sự đe doạ nặng nề chung cho anh em văn nghệ sĩ đang muốn tìm những lối sáng tác khác với bè phái bên kia.
Sau cuộc lên án đó, tôi không được biết tin gì về anh. Tôi đoán biết được lần này thì anh sẽ thực sự ngồi tù. Vợ anh gần đến tháng ở cữ, vật vã khó suốt ngày suốt đêm vì quả nhiên, sau cái ngày mùng 2 Tết ấy, anh đi không về nữa.
Tôi cũng ân hận hết ngày ấy qua ngày khác, luôn thấy mình là thằng làm hại bạn: “Dần ơi, bây giờ mày nằm trong nhà tù nào, mày có trách tao không?”
Lần này tôi lo sợ hơn lần trước anh bị giam lỏng hơn 3 tháng. Lần này cái bè phái độc quyền văn nghệ kia nó quyết liệt hơn trước, trong không khí văn nghệ đã nghe thấy máu lửa. Tôi lo ngày lo đêm đến con người anh. Lần trước, anh còn chịu được và còn có thể bình tĩnh. Đến lần này, liệu anh còn có đủ can đảm chịu đựng hay không? Tôi đã nghĩ đến cái phút đau đớn cực độ, anh không thiết sống nữa thì một lưỡi dao, một cái đập đầu vào tường… tôi sẽ mất một người bạn, và chúng ta mất tác giả Người người lớp lớp, tương lai mất một nhà thơ.
Khi chị K. ốm nghén, bơ vơ trong một căn nhà, chống gậy sang hàng xóm xin từng ngụm nước, là lúc người yêu của chị đi ba tháng không về.
Khi chị K. đau quằn quại, cho ra đời đứa đầu tiên của một mối tình cay đắng, là lúc người yêu của chị lại đi… không biết bao giờ về.
Đứa bé ra đời, còm rom như một con mèo ốm. Nó quặt quẹo, sài đẹn mấy lần tưởng chết. Chị K. nuôi con bằng nước mắt nhiều hơn bằng sữa.
Tin anh vẫn mịt mù. Lần này chị không còn hiểu lầm anh là “phụ bạc” mà chị đã biết thực sự. Chị không oán thán nữa, chỉ ôm con mà khóc. Có lần tôi đến thăm, chị kể lể:
"Giá đừng biết nhau, đừng yêu nhau thì anh ấy đỡ khổ, tôi cũng đỡ khổ và không đến nỗi phải cho ra đời một đứa bé khổ sở thế này. Liệu nó có mất bố không hở anh? Liệu tôi có goá chồng sớm không hở anh?"
Tôi như bị chích vào vào gan. Bế đứa bé thấy nhẹ bỗng, mặt mũi nó nhăn nhúm, méo mó, tôi đã khóc và suy nghĩ rất lâu về giá trị con người. Đặt tên cháu bé là gì để kỷ niệm những ngày bố cháu và nhân phẩm văn nghệ sĩ bị trà đạp xuống bùn đen?
Hôm nay
Trời đã thôi mưa thôi gió
Nắng lên đỏ phố đỏ nhà
Đỏ mọi buồng tim lá phổi
Em ơi! Đếm thử bao nhiêu ngày mưa…
Phan Khôi sinh ngày 6/10/1887 tại làng Bảo An, xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông qua đời tại Hà Nội ngày 16/1/1959 (8/12/ năm Mậu Tuất), thọ 73 tuổi. Các nhà nghiên cứu cho rằng: ông thuộc số những trí thức hàng đầu có công tạo ra mặt bằng tri thức và văn hóa cho xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, nhưng khác với họ, ông thể hiện mình ở vai trò phản biện, và sự phản biện đó đem lại chiều sâu mới cho tri thức. |
Quả nhiên, một buổi chiều sang hè anh đã về. Tin đó đến với tôi không đột ngột lắm, vì tôi tin chắc ở ánh sáng Đảng Cộng sản Liên Xô, tin ở chân lý mà Đảng ta nắm rất vững.
Anh đã về. Gặp anh, tôi không nói gì được. Vẻ mặt anh vẫn vui, nhưng có hằn thêm những nét khắc khổ. Da mặt xanh, người gầy gộc. Nói chưa được một câu, anh đã cười, vẫn giọng cười hồn nhiên, khoe với tôi bốn bài thơ anh làm trong lúc bị giam, và khoe rằng sở dĩ anh được về là nhờ có sự sáng suốt của Trung ương Đảng.
Tôi đọc kỹ bốn bài thơ đó, và nhìn anh, kinh ngạc. Tôi không thể nghĩ được rằng trong hoàn cảnh bị giam đau đớn thế, anh lại có đủ bình tĩnh làm những bài thơ sáng sủa chan chứa lòng yêu đời, yêu Đảng như thế này. Tôi thấy quí và kính phục người bạn mà tôi cho là rất anh dũng. Tôi khoan khoái đọc to mấy đoạn thơ của anh, anh ngửa mặt lên, tôi chợt nhìn thấy ở cổ anh có một vết sẹo dài nằm ngang cuống họng, thịt mới liền, còn đỏ tươi.
Tôi hiểu cả, không hỏi thêm anh điều gì… Trước mắt tôi, là một người có sức mạnh chống chọi với tủi nhục, với thành kiến, cả đến những lời vu cáo đanh thép nhất cũng rụng dưới chân anh như cỏ héo.
Trước mắt tôi là một người chí tình, tha thiết, đã có những giây phút bốc lên quá nóng nảy cục cằn, đã tự do bừa bãi nhưng không lúc nào ngừng hoạt động vì tiền đồ rực rỡ của văn nghệ.
Trước mắt tôi là một con người dũng cảm của Đảng, có thủy có chung, biết tin yêu Đảng vô bờ bến, biết căm ghét những cái thối nát đang làm hại đến uy tín của Đảng, của quân đội…
Trước mắt tôi là Trần Dần.
Trước mắt tôi lúc viết bài này là một chuyện kéo bè để vu cáo trắng trợn, một vụ án văn chương vô cùng oan ức, một tài năng và một tâm hồn trong sạch bị giày xéo.
Trước mắt tôi là lòng tin vào ánh sáng của Đảng. Ánh sáng đó sẽ soi rọi vào bất cứ chỗ nào đang cần bảo vệ giá trị con người.
(Những đoạn thơ trong bài trích từ bài thơ “Nhất định thắng”)
Tổ Ba Người
Đây mới là thủ phạm!
Báo Nhân dânra ngày 8-9, trong câu Chuyện vô lý có đăng tin Đội kịch Trung ương mất toi ba triệu đồng về việc diễn Nọc rắn mà không tìm ra thủ phạm. Nhưng cuối cùng Báo Nhân dân lại gọi hai tên “Quan liêu” và “Mệnh lệnh” cho rằng đấy là thủ phạm. Nghe đâu Hoài Thanh nhân danh Vụ Nghệ thuật đã có lời minh oan cho hai tên “Quan liêu” và “Mệnh lệnh”, chúng tôi cũng xin góp phần minh oan cho hai tên ấy.
Câu chuyện chúng tôi biết như thế này:
Khi Bửu Tiến đưa ra Nọc rắn thì một số anh em trong nghề nhận xét một cách khiêm tốn là chưa dùng được. Tuy tờ báo Văn nghệ có cố gắng đăng hai kỳ với chữ “tít” đỏ nhưng Nhà xuất bản Văn nghệ đã từ chối không nhận in.
Bửu Tiến đi Trung Quốc gới gắm Nọc rắn lại cho Thế Lữ. Thế Lữ, sau chuyến đi Liên Xô, Trung Quốc về rất phấn khởi và độ lượng. Thế Lữ thường nói một cách chí thành là: “Moa phải rơ-lơ-vê tất cả những vở kém! (Thế Lữ cũng đã thực hiện trong việc chấm giải dịch)”. Tuy thế, Thế Lữ cũng nhận thấy Nọc rắn còn yếu nên giao cho Nguyễn Khắc Dực chữa Nọc rắn (mặc dầu Nguyễn Khắc Dực rất sợ Nọc rắn).
Hôm đem đọc Nọc rắn thì có cả Huy Cận và Hoài Thanh. Tất cả đều ngồi nghe một cách chăm chú, cẩn thận. Đọc xong, Thế Lữ gật đầu một cách chí thành “Thật là hấp dẫn!!” Hoài Thanh cũng gật đầu: “Căn bản là phục vụ được cải cách ruộng đất”, Huy Cận có vẻ hể hả. Anh em thì có nhiều tiếng xì xào: “Nghe nó thế nào ấy! Nhạt lắm! Giống một vở kịch Pháp”… Nhưng cuối cùng, sau những lời chỉ giáo của các cấp thì anh em cũng đi vào diễn tập.
Báo cáo về diễn tập của Song Kim, lúc bấy giờ là đội trưởng - rất khả quan.
Lời giải thích của Thế Lữ hôm biểu diễn ở Nhà hát lớn cũng rất hấp dẫn.
Khán giả chờ đợi. Màn mở; tên địa chủ Lung ra dạo qua dạo lại… (Chế Lan Viên lại tưởng người trong Ban tổ chức!) một con điên khóc lóc và ca hát v.v…
Khán giả kiên nhẫn chịu đựng hơn một tiếng đồng hồ.
Màn buông xuống: Lưu Trọng Lư vỗ tay một cách vô tội vạ. Hoài Thanh ra về ưu tư. Huy Cận kém phần hể hả. Thế Lữ vẫn nói say sưa về thế hệ diễn viên Sta-ni-láp-sky và kết luận diễn viên của Đội kịch Trung ương là tồi. Mặc dầu, toàn thể người xem vẫn lắc đầu: Hỏng về căn bản!
Riêng Bửu Tiến đang lặng lẽ nghe tiếng chân của mình lê trên đường vắng, bỗng chửi đổng bọn phong kiến.
Nọc rắn gác lại đấy.
Câu chuyện rơi vào im lặng.
(Im lặng sân khấu)
Báo Nhân dân đã đánh cồng kéo một màn kịch mới.
Ai là thủ phạm?
Người ta đẩy hai tên Quan liêu và Mệnh lệnh ló đầu ra.
Đội kịch bảo rằng: Không phải! Không phải!
Hoài Thanh cũng bảo: Không phải! Không phải!
Chúng tôi đồng ý.
Sự thật thì Nọc rắn đã được nghiên cứu cẩn thận, chứ không phải chỉ “liếc qua” như báo Nhân dân đã đăng. Đấy là công việc thận trọng của những người trịnh trọng.
Ai là thủ phạm?
Hãy tạm gác lại việc truy tầm thủ phạm một vài phút để tiếp túc câu chuyện lúc nãy đã:
Sau buổi diễn Thế Lữ vẫn bảo rằng “Bửu Tiến có những ngón cao tay”.
Sau một phút trầm ngâm Thế Lữ nói tiếp: "Sự thành công của một tác phẩm không phải là chỉ ở ngón cao tay mà lại là ở cuộc sống, con người."
Thế Lữ lại tiếp tục trầm ngâm, bỗng sực nhớ ra việc gì, anh trố mắt hỏi một người đứng bên cạnh: "Này, thế ra Cải cách Ruộng đất đợt 5 lại có những chuyện thế cơ à?"
Rồi anh gật gù: "Ghê thật! ghê thật! Mình cứ ngồi đây thì chẳng biết gì cả."
Thế Lữ lại tiếp tục trầm ngâm, nhìn ra ngoài cửa sổ. Dưới đường, người đi, xe chạy. Cuộc sống qua vụt vụt. Thế Lữ “bàng bạc” như vừa đánh rơi một vật gì. Trong lòng anh chỉ còn sót lại ngón cao tay!
Huy Cận, Hoài Thanh thì có vẻ băn khoăn nhiều lắm.
"Quái thật! Ngón cao tay của Thế Lữ thế mà ít công hiệu?"
Lưu Trọng Lư gặp ai cũng nói:
"Mình dạo này phụ trách về Ca vũ… chả biết đội kịch nó ra thế nào!"
Ai là thủ phạm?
Thưa các ngài,
Chúng tôi xin bào chữa cho hai tên “Quan liêu” và “Mệnh lệnh” và xin vạch mặt thủ phạm vụ mất 3 triệu đồng ấy. Chính là tên “Không biết gì”. Không biết gì về nghệ thuật, không biết gì về cuộc sống.
Nhưng nếu chỉ có một mình tên “Không biết gì” thì nó cũng chẳng có cách nào làm mất toi được 3 triệu đồng của công quỹ. Nó đã nhờ có một tay trong nữa trong vụ này: Đó là tên “Ăn cánh”, thủ phạm thứ hai.
Tất cả câu chuyện là ở chỗ ấy.
Và nếu nhân dân và báo Nhân dân đồng ý thì chúng tôi đề nghị tha bổng cho hai tên “Quan liêu” và “Mệnh lệnh” để truy tố hai tên “KHÔNG BIẾT GÌ” và “ĂN CÁNH” .
Danh sách các bạn đã góp tiền ra báo
Phan Khôi (Hội V.N.) | 50.000 đ |
Lê Đại Thanh (Báo V.N.) | 20.000 đ |
Hồng Lực (Hội V.N.) | 5.000 đ |
Nguyễn Thịnh (Điện ảnh) | 200.000 đ |
Tử Phác (Văn nghệ Q. Đ.) | 20.000 đ |
Hoàng Cầm (Hội V.N.) | 100.000 đ |
Trần Duy (Xưởng hoạ) | 100.000 đ |
Nguyễn Hữu Đang (Báo V.N.) | 100.000 đ |
Hoàng Tích Linh (Văn nghệ Q. Đ.) | 5.000 đ |
Hàn Phi Tử
Tường đổ
Nước Tống có người nhà giầu. Một hôm trời mưa, tường nhà anh ta đổ.
Đứa con nói: “Thưa cha, không đắp ngay tường lại, e có trộm vào”.
Người láng giềng thấy tường đổ cũng nói: “Này bác, không đắp ngay tường lại, e có trộm vào”.
Tường chưa kịp đắp, tối hôm ấy, nhà anh ta quả nhiên mất trộm thật.
Anh ta khen đưa con khôn ngoan biết trước, mà ngờ người láng giềng là gian giảo làm xằng.
Cùng một câu nói, con nói thì khen là tinh khôn; láng giềng nói, thì ngờ là trộm cắp, bởi cớ làm sao? Tại con thì thân, cho nên không có bụng ngờ; láng giềng là tình sơ, cho nên sinh ngờ vực.
Thế cho nên phận sơ mà câu nói thân thì thế nào cũng làm cho người nghe mình đem lòng nghi hoặc.
(Cổ học tinh hoa)
Một bài thơ của Lê Đạt - Nhân câu chuyện mấy người tự tử
Đọc báo Nhân dân số 822
Có đăng tin mấy người tự tử
Vì câu chuyện tình duyên trắc trở
Đêm mùa hè nóng nôi
như lửa
Tôi ngồi làm thơ
Vừa giận, vừa thương mấy người xấu số.
Chân đi chưa hết nửa đường đời
Đã vội nằm im dưới mộ
Cuộc sống cho dù lắm mưa
nhiều gió
Nhiều cay đắng xót xa
Cũng đẹp gấp vạn lần cái chết
Chết là hết
hết đau
hết khổ
Nhưng cũng hết vầng trăng soi sáng trên đầu
Hết những bàn tay e ấp tìm nhau
Len lén, bước chân hò hẹn
Bây giờ gặp gỡ nơi đâu?
Dù có chết cùng nhau
Cũng vẫn là chia tay nhau vĩnh viễn
Trời đầu xuân mây vần bão chuyển
Có lạnh không?
Tôi biết hai người khổ lắm
Còn gì buồn bằng không được yêu nhau
Nhưng sao lại chết?
Nhà đạo đức vuốt hàng râu mép
Hạ kính
lắc đầu
Chép miệng
“Hoà bình chủ nghĩa”
Tôi không nghĩ vội vàng như thế
Tôi đã từng yêu
từng đã khổ nhiều
Nhưng không thể tán thành cái chết
Tôi không thích loại cúi đầu theo số kiếp
Cắn răng vào cứ sống cứ yêu
Khi Lương Sơn Bá tương tư trên
giường bệnh
Ngày một võ vàng
Ôm bóng người yêu mà chết
Khi Chúc Anh Đài xăm xăm vào huyệt
Theo nhau cho trọn lời nguyền
Cả rạp lặng yên
Những chiếc khăn tay đầm đìa nước mắt,
Sự thật cuộc đời đắng cay hơn nghệ thuật
Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài
Sống không được yêu nhau,
Chết còn được hoá thành đôi bướm,
Nhưng mấy người tự tử
Xác bây giờ mục nát dưới mồ,
Biết ai thương họ?
Có phải vì chúng ta quá yêu người yêu cũ
Mà quên người sống bây giờ?
Có phải vì chúng ta mất nhiều trong Kháng chiến,
Nên chủ trương tiết kiệm lòng mình?
Có phải vì chúng ta muôn việc rối tinh
Đành xếp lại chuyện mấy người tự tử?
Lịch sử phải trải qua bao đau khổ
Những người chết thiêu trong lửa
Những người chết gục trong tù
Những người chết treo trên cột
Tùng xẻo lăng trì
Rỏ máu trên bàn thờ nhân loại
Cho con người được làm người
Cho con người được yêu được sống
Tôi muốn gào lên cho đến khi lạc giọng
“Không gì đau thương
bằng
mất một con người”
Sao họ lại đưa nhau đi tự tử?
Có phải vì họ không bằng lòng chế độ,
Bất mãn với cuộc đời?
Không.
Họ chưa hai mươi
Cô bé hôm nào mới lớn
Soi trộm vào gương, thấy má mình hồng
Nghĩ đến chuyện lấy chồng
đỏ mặt
Người con trai ngồi trên gò đất
Thổi sáo gọi người yêu
Làm nắng chiều
đứng lại
Lúa đương thì con gái
Cũng thấy rộn trong lòng
Xôn xao gió thổi
Đầu sát bên đầu bàn chuyện tương lai
Thôn xóm tan dần bóng đen địa chủ
Cuộc đời như ánh trăng mỗi ngày một tỏ
Sáng bừng lên
Trong những chiếc hôn đầu
Chế độ ta không cấm họ yêu nhau
Mà sao họ chết?
Người công an đứng ngã tư đường phố
Chỉ huy
bên phải
xe chạy
xe dừng
Rất cần cho việc giao thông.
Nhưng đem bục công an
máy móc
đặt giữa tim người
Bắt tình cảm ngược xuôi
Theo đúng luật đi đường nhà nước
Có thể gây rất nhiều chua xót
ngoài đời
Ngày Phật đản vừa rồi được nghỉ
Tôi đến nhà Văn Cao
Hai đứa rủ nhau
đi ăn thịt chó
Văn Cao vốn là người nể vợ
Ăn xong mua một gói về nhà
Tôi bỗng giật mình,
(nhưng không để lộ ra)
Người chủ xé thơ tôi
gói thịt
Ngay lúc đó tôi chỉ còn muốn chết
Như dại như điên tôi oán đất, oán trời
Nhưng hôm nay tôi chỉ oán mình tôi
Thơ tôi bị cuộc đời ruồng bỏ
Vì tôi đã ngủ quên trong chế độ
Vẽ phấn bôi son, tô toàn màu đỏ
La liệt đầy đường hoa nở
chim kêu
“Tốt tốt!
xà và
tốt tốt!”
Qua thơ tôi
cuộc đời như hết chuyện
Có thể khoanh tay yên trí đi nằm
Như Thượng đế bước sang ngày thứ tám
Không! Không!
bóng những ngày xưa u ám
Còn lởn vở che cuộc đời như gấu ăn giăng
Cải cách đợt năm
Tôi có qua thăm nhiều thôn xóm
Những cây lúa cúi đầu dưới ruộng
Đã ngẩng mặt lên trời
Mơ ước mấy nghìn đời
biểu tình trên dãy thẻ
Luỹ tre làng phơi phới bay xa
Mở rộng cửa đón những ông chủ mới
Ruộng đất nông dân được đội về cởi trói
Nhưng còn tim
còn óc con người?
Giữa năm Cộng hoà lớn khôn mười một tuổi
Vẫn còn lọt lưới
nhiều thói “an nam”
Dán nhãn hiệu
“Made in Cách mạng”
Ngang nhiên xúc phạm con người
Đẩy họ đi tự tử
Phải quét sạch mây đen
cho chân trời rộng mở
Chặt hết gông xiềng
cho những cánh tung lên
Ngày và đêm
mộng bay đầy cuộc sống
Khát vọng theo khát vọng
Không gì ngăn cản con người
Hà Nội, tháng 6-56
Lê Đạt
Tái bút
Bài thơ đến đây, đáng lẽ là chấm hết
Nhưng tác giả đọc cho mấy người quen biết
Thấy cần tái bút đôi lời
Một anh bạn chửi tôi:
“Hết chuyện rồi sao
Mà lại đẽo đến chuyện người tự tử
Ngậm mực phun đen chế độ”
Anh bạn ơi!
Tôi khuyên anh
Không đẹp gì cái lối vu oan giá hoạ
Ném bã rượu vào nhà người
“Trăm năm bia đá thời mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”
Lịch sử luôn luôn duyệt lại
Không ai lừa được cuộc đời
Trước toà án ngày mai
Mấy thằng bán rẻ ông cha đi làm chó
Đánh hơi gật gù
“Lại một thằng làm thơ bất mãn”
Lân la xán đến gần
Hoa chân múa tay
Rêu rao miền Bắc
Trong kia miền Nam
thế này
thế khác.
Cút ngay đi! Đừng giở trò kiếm chác
Ăn bẩn sủa càn
Đất nước trong khó khăn
Đối với chúng ta càng yêu càng quý
Con thương cha mẹ
lúc ốm
lúc đau
Chén thuốc múi chanh bảo nhau chạy chữa.
Tôi chưa quên những ngày qua đau khổ
Kiếp sống nặng trên vai
như một án tù
Cắt tóc đi tu
tu không trọn
Thuốc phiện dấm thanh không thoát nợ đời
Mười tám tuổi già hơn ông cụ:
Tôi đã biết thế nào là tự tử
Nên tôi yêu thiết tha cuộc đời
Càng yêu cuộc đời
tôi càng yêu chế độ
Chế độ của tôi
Sống để bụng
chết mang theo dưới mộ
Nhưng yêu thương
không có nghĩa là tụng kinh gõ mõ
Bán dầu cù là
để lừa Dân lừa Đảng
Cuộc sống đòi hỏi người làm thơ can đảm
Vạch mặt những con sâu cách mạng
Ẩn núp trong nếp cờ
Đội mũ đi hia
Phè phỡn trên lưng chế độ
Tôi trở lại chuyện mấy người tự tử
Họ đúng hay sai,
thôi để họ nằm yên ngủ
Dù khen dù chê
họ cũng đã chết rồi
Nhắc nhở chúng ta nhiệm vụ những người
còn sống
Phải hiểu
Phải yêu
Phải trọng
Con người…
Hà Nội, tháng 7-56
Hoàng Huế
Một cuốn sách chụp mũ
Tôi đọc Một chuyện tuyệt giao giữa lúc Hà Nội đang sống yêu đương trong đêm thứ bẩy. Trời đầy sao. Những đôi vợ chồng, những cặp tình nhân và những đôi bạn trẻ đang đi thảnh thơi trên hè phố, hay ngồi trên những ghế đá vườn hoa, thì thầm to nhỏ. Cuộc sống đáng yêu quá. Giữa lúc đó, một cuốn sách Liên Xô dịch ra tiếng Việt nói về tình bạn và tình yêu, đã làm tôi thất vọng. Nội dung cuốn sách như thế nào?
Đó là một tác phẩm nửa phê bình nửa lý luận chia ra làm 6 phần.
Phần đầu kể: Một hôm bộ biên tập báo Sự thậtcủa Đoàn Thanh niên Cộng sản nhận được thư của giáo sư A-mô-xốp yêu cầu báo đăng lên một lá thư của một nữ nhân viên dưới quyền tên là Ga-li-na, gửi cho bạn gái, kể câu chuyện riêng của chị. Trong thư, Ga-li-na kể:
Chị gặp anh Sê-pô-kin trong một buổi vũ hội. Hai người quen nhau trong hai tháng, thường nói chuyện rất say mê về hội hoạ, thi ca, nghệ thuật. Qua câu chuyện, Ga-li-na cứ ngỡ Sê-pô-kin là một sinh viên. Một hôm, Sê-pô-kin cho biết mình làm thợ nề. Ga-li-na vô cùng ngạc nhiên. Chị hỏi “thế ra anh là thợ nề thường thôi à?... Tôi cứ tưởng anh là sinh viên trường đại học kiến trúc cơ đấy!”.
Thế là xảy ra chuyện gì? Ga-li-na viết trong thư để phân trần với một lòng thành không ai có thể nghi ngờ:
“Chị cứ thử nghe xem, anh hỏi tôi một cách như thế này có nhục nhã (cho tôi) không chứ: ‘Làm một thợ nề thường không tốt hay sao?’ Tôi vội nói: ‘Không, tại sao không tốt?’ và tôi bắt đầu giải thích nhưng cũng không đi đến đâu cả…
Chúng tôi trầm lặng bước đi, không nói với nhau chuyện gì được nữa. Đến cửa vào sân vận động, bỗng nhiên anh quay người lại và đi thẳng về nhà không nói với tôi nửa lời và chẳng chào tôi nữa. Mặc dù sau đó tôi cố gắng tìm cách hoà hảo lại như thế nào, tình bạn của chúng tôi cũng đã chấm dứt rồi. Anh ta cũng không muốn gặp tôi nữa.”
Phần hai của cuốn sách kể: Báo Sự thậtcủa Đoàn Thanh niên Cộng sản đã đăng thư này lên với một mục đích một chiều: “Bạn đọc hãy nói cho Ga-li-na rõ những sai lầm của mình. Thế là câu chuyện như hạt đậu trở thành to bằng con voi. Nhiều độc giả gửi bài đến suy diễn chuyện trên ra, quy thành tư tưởng và nghiêm khắc phê bình Ga-li-na. Những phần sau của cuốn sách tổng hợp lại bao nhiêu ý kiến ấy, và cho rằng những ý kiến này là văn kiện của quần chúng bình thường nên hoàn toàn đúng.
Nhưng nó có đúng thật hay không? Chúng ta, độc giả Việt Nam, cần bình tĩnh xét lại.
Đại khái bao nhiều lời phê phán quy kết nghiêm khắc ấy như sau:
Nhiều người đã dẫn chứng lời đồng chí Sta-lin “lao động là sự nghiệp vinh quang và vinh dự” và buộc tội “Ga-li-na đã coi thường và khinh miệt cái vinh quang, cái anh dũng, cái vinh dự ấy, Ga-li-na đã khinh rẻ lao động chân tay”.
Có người ghép Ga-lina vào một “loại” riêng và nói: “Những thiếu nữ loại Ga-li-na cho rằng quen biết với công nhân thì giảm bớt giá trị của họ đi.”
Có người quyết đoán rằng: “Rõ ràng khi Ga-li-na biết Sê-pô-kin chỉ là một công nhân thường, không thể không cảm thấy mình nhầm nên không vui lắm”.
Có anh phân tích như anh học trò lớp năm làm luận: “Nếu nước ta không có thợ công nhân thợ nề và thợ sơn thì Ga-li-na sẽ không có phòng thí nghiệm để ngồi làm việc”.
Và người viết sách đã đồng tình với tất cả những người đã chụp những cái mũ rộng thênh ấy cho Ga-li-na, và hoan nghênh những ai đã biết lấy câu nói “một công nhân thợ nề thường” của chị mà kết luận như đanh đóng cột rằng trong ý thức chị ta còn nhiều tàn dư của giai cấp tư sản.
Tôi, cũng như nhiều bạn đọc khác, sau khi đọc đi đọc lại cuốn sách nhiều lần, và suy nghĩ thêm nhiều lần, thấy rằng đó là những lời suy diễn vội vàng, hấp tấp, kém suy nghĩ.
Chúng tôi cho rằng câu chuyện của Ga-li-na chỉ là một chuyện hiểu nhầm nhỏ thường vẫn xẩy ra hàng ngày trong sinh hoạt của những đôi bạn trẻ, chứ tuyệt đối không mang một nội dung tư tưởng nào cả.
Ga-li-na không tỏ ra thái độ gì để có thể bị buộc tội là khinh miệt lao động. Chị vẫn yên trí là Sê-pô-kin là sinh viên, vì anh nói giỏi chuyện nghệ thuật; thi ca, nên khi anh bảo anh là thợ nề thì chị ngạc nhiên, một sự ngạc nhiên rất “người” do cái thực tế đột nhiên cải chính óc tưởng tưởng. Trong sự ngạc nhiên đó khống có ý gì xấu xa.
Nếu Ga-li-na có nói câu: “Thế ra anh chỉ là người thợ nề thường thôi à?” và “Tôi cứ tưởng anh là một sinh viên cơ đấy!” thì câu nói đó là một câu kính phục chứ không phải là một câu thất vọng. Nếu bây giờ tình cờ tôi quen một chị bạn mới nào đó, chị nói rất giỏi về vôi vữa, gạch ngói, nhưng sau cùng chị cho tôi biết chị là sinh viên đại học văn khoa, tất tôi cũng ngạc nhiên hỏi chị: “Thế ra chị là sinh viên đại học văn khoa à? Tôi cứ ngỡ chị là một thợ nề bình thường”.
Chúng ta có thể quy kết chuyện sinh hoạt nhỏ trên thành tư tưởng khinh lao động, trong trường hợp Ga-li-na khi nghe nói Sê-pô-kin chỉ là thợ nề, liền trở mặt, lặng lặng bỏ đi, và tự ý tuyệt giao. Nhưng ở đây không thể!
Bởi vậy tôi cho rằng người chịu trách nhiệm nhiều hơn trong chuyện tuyệt giao này, không phải là Ga-li-na, mà chính là Sê-pô-kin. Anh đã tỏ ra nóng nảy, hấp tấp, kém suy nghĩ, và có một lòng tự ái không đẹp lắm. Như lá thư đã trình bày, mặc dù Ga-li-na biết mình bị hiểu nhầm, đã hốt hoảng kêu lên: “Không! Tại sao không tốt?”, và những hôm sau đó cố tìm mọi cách hoà hảo để nối lại tình bạn, Sê-pô-kin vẫn cố tình “tuyệt giao”.
Rõ ràng anh ta là người tự ti, hay dỗi, nhiều thành kiến và cố chấp.
Phải công bằng mà nhận rằng trong cuốn sách có vài ý kiến phê bình Sê-pô-kin, nhưng người ta không vạch ra khuyết điểm nặng nề của Sê-pô-kin, mà chỉ nói anh sai lầm vì đã không bình tĩnh vạch khuyết điểm khinh lao động (?) cho Ga-li-na thấy.
Riêng tôi, tôi rất công phẫn tại sao báo Sự thậtcủa Thanh niên Cộng sản lại có thể hiểu nhầm Ga-li-na đúng như anh chàng Sê-pô-kin – mà có lẽ còn tệ hơn Sê-pö6-kin vì đã đọc bức thư của Ga-li-na trong đó chị nói rõ nỗi khổ tâm bị hiểu nhầm - rồi báo đó lại căn cứ vào sự hiểu nhầm gần như cố ý của mình mà đặt vấn đề xuyên tạc như là Ga-li-na đã thú tội? Ngay cả giáo sư A-mô-xốp, bắt được thư riêng của Ga-li-na mà không trao trả, lại tự tiện đem công bố trên mặt báo, tại sao cũng không có một người nào vạch rõ thái độ bất lịch sự - và có lẽ còn phi pháp nữa - của ông ta?
Đến đây, tưởng phải ngoặc lại một chút. Tôi không hoàn toàn phủ nhận cuốn Tuyệt giao. Có nhiều vấn đề đã nêu ra và giải quyết một cách đúng đắn. Tôi rất tán thành những ý kiến tốt này: Phải tôn trọng giá trị lao động và người lao động, “lao động đang tạo ra trí thức” v.v…
Đúng thế. Hôm nay ở Liên–Xô, cũng như mai đây trên đất nước chúng ta, con em những người lao động sẽ là lực lượng thống trị trong các trường đại học. Giai cấp công nhân sẽ tự mình đào tạo ra những nhà bác học, kỹ sư, bác sĩ và những nhà văn của giai cấp mình. Điều đó không ai có thể chối cãi cũng như nhiều vấn đề đã được nêu ra trong sách: Lao động là cơ sở tất yếu của tình bạn chân thành; trong tình yêu nhất định phải tôn trọng nghề nghiệp và lao động của người yêu; tình yêu là cơ sở của gia đình v.v…
Tôi chỉ muốn nêu ra ở đây cái sai lầm cơ bản của cuốn sách: một lối chụp mũ trắng trợn.
Cuốn sách đã xuất phát từ quần chúng chủ nghĩa và công nông chủ nghĩa máy móc. Tôi dám nói thẳng rằng: có thể một số cán bộ phụ trách Đoàn Thanh niên Cộng sản Liên–Xô, trong hoàn cảnh lãnh đạo sai lầm của Sta-lin, đã phạm những khuyết điểm nghiêm trọng này. Họ cho rằng bao nhiêu ý kiến chụp mũ trên là ý kiến của những người dân bình thường nên hoàn toàn đúng. Họ chĩa mũi dùi của cuộc thảo luận về phía Ga-li-na là một tiểu trí thức chứ tuyệt không đả động đến Se-pô-kin, vì quan điểm người công nhân là thần thánh, trong việc này không thể có sai lầm.
Người đọc dù cố vô tình đến đâu cũng phải chú ý đến điểm cuốn sách mang trong mình nó cái dòng máu sùng bái cá nhân Sta-lin mà ngày nay chúng ta đã biết là một hiện tượng xã hội nguy hiểm ở Liên–Xô cho đến mãi Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên–Xô. Khá nhiều đoạn nhắc đi nhắc lại: nào là thời đại Sta-lin, nào là đồng chí Sta-lin, lãnh tụ của lao động toàn thế giới, đã dạy chúng ta thế này, đã dạy chúng ta thế nọ…
Sta-lin lúc còn ngồi trong điện Kờ-rem-lanh đã tạo ra rất nhiều sai lầm cho thời đại. Quần chúng Liên Xô, và cả giai cấp công nhân Liên Xô nữa, trong hoàn cảnh ấy, tất nhiên phần đông cũng chịu ảnh hưởng xấu kia ở những phương diện nhất định nào đó.
Bởi vậy cách giáo dục con người Liên Xô về thời ấy cũng có nhiều sai lầm. Tôi lấy ví dụ cuốn phim Con đường vinh quang. Ai đã xem phim ấy đều cảm thấy khó chịu. Một chị vợ muốn đi công tác, chồng không thích cho đi, chị đã “chỉnh” người chồng bằng những công thức chính trị cứng nhắc, rồi dứt áo ra đi. Tất nhiến trước thái độ phũ phàng và coi thường chồng ấy, người chồng phải bỏ chị. Cuốn phim hoan nghênh người vợ và đả đảo người chồng.
Cách đây ít lâu chúng ta lại được xem cuốn phim khác của Ba Lan, cũng đề cập tới vấn đề ấy. Một người vợ khi biết chồng có ý gò mình ở nhà nấu ăn và giữ con, mỗi buổi chồng đến xưởng thì chị lại lén đi học lái ô-tô. Mãi đến khi chị đậu giải nhất trong kỳ thi lấy bằng lái xe, tình cờ người chồng mới biết, và lúc ấy vô cùng cảm phục vợ, đã ôm vợ hôn thắm thiết.
So sánh hai cuốn phim, chúng ta mến phục lối giáo dục của những tác giả cuốn phim Ba Lan đã hiểu biết con người và quí trọng cái tình nghĩa vợ chồng mà người ta chỉ có thể dằn lòng gạt bỏ trong mâu thuẫn cao độ giữa cách mạng và phản cách mạng chứ không thể vì chưa đồng ý về chuyện ở nhà hay đi công tác mà dí xuống dưới chân.
Người dịch cũng như người viết, cùng làm một nhiệm vụ lớn: Kỹ sư tâm hồn. Anh có nhiệm vụ bắc cầu giữa nghệ thuật nước ngoài và quần chúng trong nước. Anh phải tìm tòi những cái tinh hoa của học thuật văn nghệ nước ngoài để giúp ích quần chúng nước ta.
Tiếc thay! Đáng lẽ phải đặt vấn đề chọn lọc thì người dịch và nhà xuất bản đã tin một cách ngây thơ rằng bất cứ sách nào của Liên Xô cũng hay cả.
Thái độ đó, trước Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô còn tha thứ được phần nào. Nhưng bây giờ, sau Đại hội, cả thế giới đều biết đến nhiều “chân lý” cần phải đem duyệt lại thì cái lòng tin ngây thơ kia thật đáng trách.
Cuốn Tuyệt giao, điển hình về sự phê phán độc đoán và chụp mũ, sản phẩm của những sai lầm độc đoán của thời đại Sta-lin, tôi chắc chắn rằng hiện nay quần chúng Liên Xô đã vứt bỏ, cũng như đã vứt bỏ cuốn phim Công phá Bá Linh, điển hình về sùng bái cá nhân. Vậy mà một cơ quan nhận trách nhiệm giáo dục thế hệ thanh niên Việt Nam mới, lại không suy nghĩ điều đó, hôm nay in lên giấy trắng mực đen 1 vạn 2 nghìn 102 bản dịch!
Thanh niên Việt Nam đang khao khát những sách “tươi” nói về tình yêu, tình bạn, tất nhiên phải tìm mua cuốn đó. Và 12.102 cuốn Tuyệt giao đắt như tôm tươi kia đã thở thành 12.102 liều thuốc chẳng… lẽ lại gọi là độc.
Trước khi dừng bút, tôi muốn tâm sự với các bạn một câu chuyện nhỏ. Buổi sớm ngày quốc khánh vừa rồi, khi quần chúng mặc áo đẹp diễu hành qua quảng trường Ba Đình, thấy lứa em nhỏ hồn nhiên phơi phới như những con ong và những chùm hoa đẹp nhất, bỗng dưng nghĩ đến cuốn Tuyệt giao, tôi đã trào nước mắt. Tôi đã khóc thật, các bạn ạ. Tôi khóc vì thấy tuổi các em trong trắng quá, tương lai các em tươi đẹp quá. Nếu ngay từ hôm nay, các em bị buộc phải nhận một sự giáo dục sai lầm để mai đây lớn lên biến thành những con người thiếu trái tim, thì chúng ta, tất cả chúng ta, phải chịu bao trách nhiệm nặng nề trước chế độ, trước lịch sử.
5-9
Địa ngục miền Nam
1. Ngô Đình Diệm muốn tỏ ra rằng Diệm cũng có thể làm những việc văn học ngoài những việc giết người và buôn lậu. Diệm phát động nhiều thứ diệt…, diệt cộng, diệt kháng chiến, v.v và gần đây là diệt giặc dốt!
Tại Thừa Thiên, ở huyện Phú Lộc nhân dân yêu cầu chính quyền Diệm mở lớp bình dân. Chính quyền Diệm bèn cho đi biên danh sách những người không biết đọc biết viết và hứa hẹn sẽ thẳng tay diệt giặc dốt. Nhân dân kỳ vọng. Diệm tổ chức một cuộc phát động diệt giặc dốt rất rầm rộ bằng hình thức một đám ma đem chôn một một quan tài đầy ắp những danh sách những người mù chữ. Nhân dân già trẻ lớn bé không hiểu gì cả nhưng vẫn cứ hy vọng.
1 tháng sau khi phát động, vẫn không có gì động cả.
2 tháng sau khi phát động, vẫn không có gì động cả. Nhân dân vẫn cứ mù chữ như thường. Một hôm nhân dân kéo đến trụ sở chất vấn. Chính quyền Diệm nghiêm chỉnh trả lời.
“Giặc dốt Chính phủ chôn rồi còn đâu nữa mà diệt”…
Thế là dân thoát nạn mù chữ!.
2. Văn hoá và xã hội là hai công tác trọng tâm của Diệm như thế là giặc dốt diệt xong rồi!
Bây giờ phải nghĩ đến nâng cao dân sinh. Diệm lo để người dân miền Nam sống trên đồng ruộng phì nhiêu của Bắc Liêu, Rạch Giá v.v… sẽ phải đói khổ, nên muốn cho họ no ấm Diệm đưa họ lên… cao nguyên Pờ-lê-cu! Ở đây có đất đỏ, đá cuội trắng và muỗi độc.
Diệm không ngớt ca ngợi Pờ-lê-cu là thiên đường, đồng bào muốn sung sướng thì nên đi Pờ-lây-cu. Đồng bào ngần ngừ, Diệm sốt ruột dỡ nhà cho họ, tích cực đẩy họ lên ô-tô.
Ai phản đối “hạnh phúc” có thể cho đi tù được! Pờ-lê-cu thiên đường!
Vũ Gia Hiếu và Vũ Đức Hải là hai chuyên viên di cư trả lời cho một tờ báo Sài Gòn về cái thiên đường ấy: “Bây giờ phải tránh hai nạn: tiếp tế chậm và ở nhà lều vải lâu ngày!”
Hà Bá
Mầu sắc
Những hôm văn công đi tuần hành, người ta có cảm giác đang ở phố hàng Mã. Màu sắc sao mà tươi thế! Xanh lam chen đỏ chói, lá mạ chen vàng, hồng, tím, xám, đỏ cánh sen. Lại có những bộ quần áo có nẹp như dán giấy. Những mẫu thêu đẹp của các dân tộc miền núi được thay bằng những miếng kim, ngân tuyến bán sẵn – thành ra những bộ quần áo đẹp được cải biến thành những quần áo của không biết lai căng xứ sở nào. Tươi quá khiến người ta phải nhắm mắt lại kẻo chói loà, loà cả mắt. Tíu tít dải lụa ở khắp mọi điệu múa, ở khắp các thành phần dân tộc. Ai bảo không màu sắc, tươi vui phấn khởi?
Nhưng chỉ có cái là không dân tộc. Nhất là cái khăn bỏ múi bên tai. Một cuộc loạn sắc bất cần mắt người xem.
Tranh châm biếm: “Hậu trường sân khấu ‘tố cộng’ ở miền Nam” của Trần Duy
Trần Công
Chống bè phái trong văn nghệ
I. Bè phái là thế nào và ai bè phái
Ít lâu nay, trong giới văn nghệ thấy nói nhiều đến danh từ bè phái. Khi Giai phẩm mùa Xuân ra đời, một số cán bộ lãnh đạo văn nghệ lớn tiếng “Đây là một tổ chức bè phái”.
Những người viết Giai phẩm mùa Xuân có phải là một bè phái không?
Trong đợt học tập lý luận vừa rồi, anh em có phê bình nhiều điểm về chính sách, về lãnh đạo, nổi bật nhất là vấn đề bè phái trong lãnh đạo. Vậy bộ phận lãnh đạo có bè phái không?
Không khí văn nghệ chưa bao giờ sóng gió như bây giờ? Anh em năm người, ba người thảo luận sôi nổi phản đối những sai lầm nghiêm trọng của lãnh đạo văn nghệ.
Một số cán bộ lãnh đạo sốt ruột lẩm bẩm: “Các anh phê bình lãnh đạo chúng tôi bè phái, thì chính các anh đang túm năm, tụm ba bè phái đấy, còn nói gì ai nữa?”.
Vậy anh em văn nghệ sĩ có bè phái không?
Những câu hỏi đó cần được trả lời minh bạch dứt khoát để chấm dứt càng sớm càng hay những suy diễn chủ quan, chụp mũ, hơi một tí là rêu rao “chia rẽ nội bộ”, làm “suy yếu tổ chức”, bới trong đời tư hoặc trong lý lịch của người ta những điểm thiếu sót thổi phồng lên biến việc đấu tranh tư tưởng, nghệ thuật thành việc đấu tranh chính trị. Thủ đoạn đó ảnh hưởng không tốt tới phong trào tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do sáng tác của chúng ta.
Trước hết, phải nói ngay rằng chủ trương trăm hoa đua nở công nhận những nhóm và những trường pháivăn nghệ. Không những công nhận mà còn cần nữa. Trong công tác tư tưởng và văn nghệ thế nào cũng có một số người đồng ý với nhau về một số điểm nhất định, muốn bênh vực, muốn phát triển, muốn truyền bá nó trong quần chúng. Những người bạn tư tưởng, bạn nghệ thuật ấy trong quá trình đấu tranh nghiên cứu sáng tác có họp thành nhóm thì tưởng cũng là chuyện tất nhiên chẳng có phương hại đến sự thống nhất của mặt trận tư tưởng và văn nghệ mà vội lo trời sụp. Trái lại có các nhóm, các trường phái, các dòng văn nghệ mới phát triển được mạnh mẽ, mau chóng. Không công nhận các nhóm, các trường phái nghệ thuật là không công nhận chủ trương trăm hoa đua nở, vi phạm nặng nề vào chủ nghĩa Mác, tạo một miếng đất tốt cho tất cả mọi sự độc đoán về văn nghệ sinh sôi nảy nở.
Chúng ta có thể nói dứt khoát với nhau: Các trường, các nhóm không phải là bè phái. Nhưnng cũng phải nói ngay rằng các trường, các nhóm có thể và cũng dễ dẫn đến bè phái.
Các trường các nhóm sẽ trở nên bè phái chừng nào họ quên mất lý tưởng nghệ thuật của họ, rời bỏ nguyên tắc đua nở hoà bình, đi sâu vào con đường cạnh tranh, kèn cựa.
Bè phái, nói một cách vắn tắt là nhắm mắt lại ca ngợi, đề cao những cái xấu của vây cánh mình và đả kích những cái tốt của các nhóm khác. Các nhóm đấu tranh với nhau, mâu thuẫn với nhau nhưng thống nhất với nhau trên một cơ sở chung: Vì nhân dân, vì đất nước, vì con người – nên mâu thuẫn mà thống nhất. Các nhóm đấu tranh tiêu diệt những cái xấu của nhau và kích thích những cái tốt phát triển. Quan hệ giữa các nhóm là một quan hệ bạn bè. Còn bè phái thì khác, quan hệ giữa các bè phải là một quan hệ đả kích, đàn áp hằn thù để tiến tới độc quyền. Bè phải thường dẫn đến những hành động vu khống nhiều khi độc ác.
Vì thế không nên lẫn lộn bè phái với các nhóm các trường, phái văn nghệ.
Anh em trong Giai phẩm mùa Xuân chỉ muốn đưa ra một số tìm tòi về nghệ thuật chống lại với một số quan điểm đang thống trị văn nghệ hồi đó, như thế không thể gọi là bè phái.
Anh em trong và sau đợt học tập vừa rồi có gặp người này, người khác trao đổi phê bình lãnh đạo, bàn bạc về những giải pháp cần thiết bảo đảm cho văn nghệ phát triển tự do; một số ý kiến quá khích hay động cơ không tốt với lãnh đạo, chính anh em cũng phản đối và uốn nắn, như thế sao lại gọi là bè phái?
Bây giờ nói về lãnh đạo
Ta cũng không nên vội vàng kết luận ngay. Chúng ta hãy trình bày một số việc cụ thể của lãnh đạo.
Vụ phê bình Việt Bắc
Tập thơ Việt Bắc cũng là một tập thơ như muôn ngàn tập thơ khác, dù có hay chăng nữa cũng chỉ là một tập thơ. Nhưng nó có cái đặc biệt. Đặc biệt không phải ở thơ mà ở tác giả. Giá tập thơ Việt Bắc là của người khác thì phê bình cũng chẳng sao đâu, nhưng Việt Bắc lại là của Tố Hữu. Một loạt bài của Hoàng Yến, Hoàng Cầm, Lê Đạt làm một số cán bộ lãnh đạo văn nghệ ngạc nhiên, tức giận thậm chí có người nói “Địch nó không mong gì hơn chúng ta chê thơ Tố Hữu”! Ta có quyền không đồng ý với những bài phê bình của Hoàng Yến, Hoàng Cầm, Lê Đạt, nhưng không đồng ý đến độ nói được câu quái gở trên thì thật là một hành động ngậm máu phun người. Nhưng làm thế đã hết đâu. Sau mấy bài phê bình Việt Bắc, báo Văn nghệ liên lục cho đăng một loạt bài ca ngợi (chỉ ca ngợi) bênh Tố Hữu. Và không cần tranh luận, cố đi đến một kết thúc thật gọn. Gọn đến mức trắng trợn. Vụ phê bình Việt Bắc kết thúc để không kết thúc gì cả.
Vụ Giai phẩm mùa Xuân
Vụ này nhiều người đã nói, ở đây chỉ xin trình bày một số nét chính. Tập Giai phẩm vừa ra, một số cán bộ văn nghệ đã công kích nó kịch liệt. Công kích bằng văn chương thì cũng đã là quá rồi, đằng này lại công kích bằng cả những hành động có tính chất hành chính thô bạo. Người ta cho rằng sở dĩ lãnh đạo làm như thế vì những người chủ chốt trong Giai phẩm đều là những người phản đối sự suy tôn thơ Tố Hữu và khuynh hướng sáng tác của họ chống lại với cái đường lối sáng tác công thức, một chiều của bè phái lãnh đạo nên bị bè phái ấy tìm hết cách tiêu diệt. Ý kiến đó đúng toàn bộ hay đúng một phần, cần phải suy nghĩ thêm. Chỉ biết Giai phẩm bị thu hồi, Trần Dần bị tống giam. Lê Đạt nghe đâu cũng bị giữ lại kiểm thảo. Bài phê bình của Hoài Thanh vu cho Trần Dần là phản động. Hoàng Trung Thông đi diễn thuyết buộc tội v.v…
Nguyễn Đình Thi đi xa về, mượn cớ đấu tranh tư tưởng nghệ thuật để mạt sát khôn khéo hơn. Nhưng ba bài báo văn hoa dài dòng không có một lời cải chính những điều vu cáo nói trên cũng không sao giấu được cái dụng ý phụ họa không tốt. Một lối kết thúc để không kết thúc gì cả.
Vụ Giai phẩm mùa Xuân sang mùa thu rồi mà vẫn còn nóng hổi, chờ đợi giải quyết lại.
Rồi đến vụ Giải thưởng Văn học 54-55
Vụ này cụ Phan Khôi đã có một vài ý kiến đăng trong Giai phẩm mùa Thu. Những ý kiến đó, đáng để chúng ta suy nghĩ nhiều vì cụ Phan là một người trong ban chung khảo, và cũng là người độc nhất chống lại các bè phái lãnh đạo trong vụ này.
Bản tham luận của một tổ trong buổi tổng kết đợt học tập vừa qua của giới văn nghệ đã nêu rõ: “Hoài Thanh, Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng đại diện cho Ban Chấp hành Hội, đều có trách nhiệm lớn đối với phong trào. Thế mà tác phẩm còn non kém của ba ông lại được giải. Nếu không phải là ta tự bỏ phiếu cho ta thì cũng là bè cánh ta bỏ phiếu cho tác phẩm tồi của bè cánh ta (cũng nên chú ý đến Huy Cận có chân trong ban chấm giải, mà ai cũng biết Huy Cận và Xuân Diệu chỉ là một). Thật là bất chấp cả giới văn nghệ, khinh miệt quần chúng. Khi dư luận quần chúng đã công phẫn và cuốnNgôi sao bị chỉ trích kịch liệt thì Hoài Thanh vẫn còn cho mình là có uy tín lớn, dám ngang nhiên đứng ra lên giọng kẻ cả mà bênh che cho Xuân Diệu.
Có thể nói: Đến bước ấy thì bè phái từ bí mật đã ra công khai rồi vậy”.
Bênh vực, bao che, tán tụng, phong chức cho nhau; đàn áp, vu cáo, nói xấu những người không tán thành mình, đó không là bè phái thì nên gọi nó cái gì?
Ai bè phái? Thật rõ như ban ngày. Cho nên ta cũng không lạ gì khi thấy một số cán bộ lãnh đạo vu cho người này người khác phản đối mình là bè phái.
Đó chính là suy bụng ta ra bụng người vậy.
Bản báo cáo của đồng chí Khơ-rút-xốp có đoạn nói trong cuộc đấu tranh chống tệ sùng bái cá nhân của Sta-lin, trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã hình thành một nhóm trung kiên theo đường lối Mác – Lê-nin, để chống lại Sta-lin. Như thế có gọi là bè phái được không?
(Kỳ sau: II. Nguyên nhân và tai hại của bệnh bè phái)
Trúc Lâm
Không phải truyện cười
Cửa hàng bán giấy
Cửa hàng mậu dịch bán giấy ở phố Tràng Tiền mỗi ngày có hàng trăm, hàng nghìn người đến giao dịch, xe giấy, giao giấy chuyển giấy, mua, bán, trong một gian buồng hẹp, dài tun hút, không khí chỉ ra vào được bằng hai khung cửa ở hai đầu không rộng đầy 3 thước vuông.
Hàng trăm con người chen nhau mồ hôi nhễ nhại. Trong buồng giao giấy tối om om. Phải chờ đợi nhau, giấy mua hàng chồng từng đống, vẻn vẹn có hai chị bán hàng, giao hàng, đếm hàng quật quật không ngớt tay, cũng mồ hôi nhễ nhại không kém người mua hàng.
“Giá chỗ này mà có lấy một cái quạt máy…” Có người phàn nàn với một nhân viên ở cửa hàng. Người này cho biết đã đề nghị xin một quạt máy từ lâu, ngót tháng nay rồi nhưng chưa được tài chính duyệt và cấp trên còn xét.
Giá những cấp trên và những người duyệt các khoản chi tiêu tài chính rời bỏ căn phòng mát mẻ có quạt máy của mình, để cũng đến cửa hàng bán giấy ở phố Tràng Tiền, sắp hàng mua bán hoặc làm những nhân viên phục vụ… chắc chắn chiếc quạt kia xin buổi sáng… buổi chiều đã được xét… là rất cần phải nên có ngay…
Trọng lẽ không nên thất lễ
Ngày lễ Quốc khánh là một ngày đại lễ rất trọng thể của lịch sử dân tộc ta.
Trên lễ đài các lãnh tụ, các đại sứ, các đại diện ngoại giao đoàn, các đại biểu nhân dân ăn mặc nghiêm trang tề chỉnh biểu lộ lòng thành kính với ngày Quốc khánh và đối với nhân dân tuần hành diễu hành qua lễ đài.
Tuy nhiên, trên lễ đài vẫn còn đại diện cơ quan đoàn thể đã mặc áo cụt tay, áo cổ bẻ như là đi xem đá bóng, đi xem chiếu bóng.
Họ không phải thiếu quần áo lễ phục đâu.
Họ chỉ thiếu cái lễ độ với các lãnh tụ, đại diện ngoại giao đoàn và với nhân dân.
Giấy mời
Một cán bộ văn nghệ hỏi đồng chí phụ trách việc phân phối giấy mời xem các đoàn văn công các nước bạn biểu diễn.
“Nghe nói văn công Triều Tiên, Trung Quốc, Liên Xô biểu diễn hay lắm phải không ạ?”
“Thật là tuyệt diệu! Không chê vào đâu được! Ma-nhi-phích!”
“Sở dĩ họ thành công là do nguyên nhân gì ạ?”
“Nhiều nguyên nhân. Nhưng theo tôi điểm chính là họ công tác với một động cơ chính xác: vì nhân dân mà phục vụ.”
“Vì nhân dân mà phục vụ chủ yếu là công nông binh có phải không ạ?”
“Họ từ quần chúng mà ra lại trở về với quần chúng.”
Anh cán bộ văn nghệ nhổ sợi râu mép nhỏ nhẻ:
“Thưa đồng chí thế tại sao những tối biểu diễn thấy ít công nông binh tham dự?”
“À, ít công nông binh là vì nghệ thuật nước bạn cao, công nông binh hiểu biết ít về văn nghệ.”
“Thế tôi là văn nghệ sĩ hiểu biết nghệ thuật mà cũng không được mời tới tham dự?”
Đồng chí cán bộ phụ trách lúng túng ngập ngừng, sau trấn tĩnh trả lời:
“Dễ hiểu lắm. Vì đồng chí không phải là công nông binh.”
Nguồn:Nhân văn số 1, ngày 20.9.1956.
Phan Vũ
Xem phim Anh gắng nuôi con
Nền điện ảnh Nhật từ trước đến nay vẫn được thế giới chú ý.
Những phim Rashomon, Những đứa trẻHiroshima đã làm sôi nổi dư luận thế giới về ý nghĩa sâu sắc của nội dung cũng như về nghệ thuật trình độ rất cao. Đạt được những thành công đó là do điện ảnh Nhật đã chuyển vào con đường tân hiện thực chủ nghĩa; Tân hiện thực của Nhật lại dung hoà với chủ nghĩa tượng trưng của Á Đông nên mang một sắc thái đặc biệt. Tân hiện thực của Nhật khác với tân hiện thực của Ý.
Phim Anh gắng nuôi con chưa phải là phim xuất sắc của Nhật, có thể đại diện cho chủ nghĩa Tân hiện thực của Nhật nhưng cũng là một cuốn phim viết và dựng theo thể thức của Tân hiện thực Nhật.
Những cảnh cờ bạc, rượu chè đĩ bợm, gian xảo, giành giật là một thực tế của cuộc sống trong hoàn cảnh của một nước Nhật trước và nay. Mễ Lang, một nạn nhân bị lôi cuốn vào cuộc sống ấy đi vào sa ngã vật chất tinh thần. Sự sa ngã ấy đã đem lại một kết quả khốc hại: cái chết của người vợ. Từ đấy Mễ Lang muốn thoát ra khỏi cảnh tối tăm của xã hội ấy, xây dựng cho đứa con một tương lai.
Lúc vợ chết có dặn: Anh gắng nuôi con! Đừng đánh nhau nữa! Mễ Lang không muốn cho con đi vào con đường đánh nhau, con đường buôn ngựa, nhưng có lúc Mễ Lang dạy con phải đánh lại những kẻ áp bức – trong hoàn cảnh xã hội như thế phải đánh để tự vệ.
Tâm lý của Mễ Lang, một tâm lý giày vò, xâu xé vì cuộc đời đang sống quá nghiệt ngã, đầy mâu thuẫn hối hận cuộc sống đã qua, một tâm lý cuồng nhiệt đến tột độ vì muốn thực hiện mục đích của mình. Tâm lý ấy nhiều khi vượt qua cả nhân tính, đến chỗ sống sượng, siêu thực nhưng về căn bản đã nói lên được khát vọng mãnh liệt đòi một cuộc sống tốt đẹp.
Chung quanh Mễ Lang là những lớp người nghèo cùng một mối tình, một ước vọng với Mễ Lang.
Ngoài lớp người nghèo khổ ấy nhưng đầy thiện chí kia lại có một số kẻ bịp bợm bóc lột mồ hôi nước mắt của người khác. Lại có tiền mở trường dạy học, khoác áo nhà giáo dục (Ý nghĩa châm biếm của cuốn phim).
Xã hội gian xảo, tối tăm ấy tạo nên những tâm lý bị giày vò, đau xót và đột khởi thất thường như Mễ Lang.
Nhận xét về phim Anh gắng nuôi con, ta cần phải đóng khung trong hoàn cảnh xã hội bây giờ, một xã hội Nhật bị Mỹ chiếm đóng. Phim Anh gắng nuôi con đã ra đời trong hoàn cảnh ấy. Vì thế câu chuyện của anh chàng buôn ngựa chẳng phải chỉ đơn thuần là câu chuyện đời tư của anh ta.
Mễ Lang, lúc rượu chè, dốc túi đánh nước bạc liều là một giai đoạn tối tăm của nước Nhật cũ. Giai đoạn ấy đã đưa đến một đám tang. Sau đám tang là sự khát vọng mãnh liệt xây dựng cuộc sống cho một đứa con, một thế hệ tương lai chính là xây dựng một nước Nhật mới (không theo con đường “buôn ngựa” cũ). Liễu Lang (tên cờ bạc bịp)… những kẻ đang khoác những bộ áo đạo đức và chính trị màu mè mua chuộc, lừa gạt nhân dân. Tuyết tượng trưng cho lớp người nhẹ dạ, cả tin, yêu tha thiết nước Nhật nhưng rất dễ lầm đường.
Tất cả thực trạng của một xã hội, tất cả khát vọng của một dân tộc thu vào một tấn kịch gia đình. Trong con người Mễ Lang cũng như trong cảnh giải quyết câu chuyện vì tình vì lý nhiều chỗ giả tạo, trừu tượng nhưng xem phim ấy phải đóng khung trong hoàn cảnh Nhật, tâm lý Nhật. Không nên đem những đòi hỏi của miền Bắc Việt Nam mà gắn vào cho một nước Nhật bị chiếm đóng. Làm nghề viết kịch bản, chúng tôi tìm thấy trong phim Anh gắng nuôi con một phương pháp thể hiện chủ đề, thể hiện tình cảm bằng cuộc sống, bằng con người, bằng chủ nghĩa Tân hiện thực. Những phim như thế rất cần cho chúng tôi trong công tác sáng tác hơn nhưng tác phẩm điện ảnh chỉ có một cái khung cứng nhắc bên trong xếp đặt theo một lề lối cố định những tâm hồn công thức, những nét sống công thức.
Viết bài này tôi muốn đưa một số quan điểm của mình bàn với bạn đọc, nhưng ngoài ra tôi còn muốn nói thêm với báo Nhân dân mấy điểm:
Tôi muốn coi báo Nhân dân là một tờ báo lớn, có một nhiệm vụ hướng dẫn dư luận quần chúng. Những bài đăng trên báo Nhân dân dù là thư bạn đọc đi nữa – báo Nhân dân cũng phải chịu tránh nhiệm, vì đăng như thế báo Nhân dân đã bày tỏ thái độ.
Hai bức thư đang trên báo Nhân dân phê bình phim Anh gắng nuôi con như thế nào?
Một cái thì bảo ông chủ rạp là lợi dụng tình cảm của quần chúng với chiêu bài: “chống viện trợ Mỹ”. Tôi không đồng ý với ông chủ rạp về việc này, vì theo tôi, chính là ông chủ rạp đã sợ các bạn phê bình kiểu lập trường máy móc, chính trị, công thức nên đã phải làm cái chiêu bài rất là tồi kia cho hợp thời! Tôi chắc rằng bạn ấy trong khi viết bài phê bình cuốn phim thậm tệ như thế không khinh ông chủ rạp bằng khinh quần chúng đâu. Phim Anh gắng nuôi con chiếu hơn một tuần lễ, quần chúng hâm mộ như thế, tôi tin chắc quần chúng không bị lợi dụng bởi mấy chữ “chống viện trợ Mỹ” mà chính trong phim có thực chất nghệ thuật. Quần chúng của ta bây giờ đã tinh lắm, không đơn giản quá như bạn viết. Không tin bạn cứ đem một phim tồi mà quảng cáo: “Hôm nay có bắn vỡ đầu Mỹ!” quần chúng cũng chả chen nhau mua vé đâu.
Một cái thư khác đăng báo Nhân dân lại có ý kiến đừng cho chiếu phim ấy lần thứ hai. Đấy là một sự độc đoán và cũng vẫn là khinh quần chúng vì không lẽ bao nhiêu người đi xem một cái phim “phát xít” đầu độc như thế mà không có lý nào lại không đứng dậy la ó ngay trong rạp, mà phải chờ đợi đến sự phân tích của bạn?
Tôi không hiểu tại sao Ban biên tập Báo Nhân dân lại có thể cho đăng những loại bài hẹp hòi như thế bên cạnh những bài của các Chu Dương, Lục Định Nhất cổ vũ những quan điểm rộng rãi về văn nghệ "trăm hoa đua nở”?
Trần Y Du
Địa ngục miền Nam
1. Mùa tựu trường đã đến. Ở miền Nam cũng có mùa tựu trường, nhưng đa số học sinh không có trường đề tề tựu.
Một tờ báo Sài Gòn than: Trên 80% học trò bậc tiểu học bị loại trước ngưỡng cửa trung học – và một số đông các em từ 7 đến 14 tuổi chỉ lo giúp đỡ cha mẹ trong các việc lặt vặt, hoặc đi chơi giỡn ngoài đường không biết làm gì cả, hầu hết đều không biết…!
Một tờ báo khác viết: Có trường để học! Có lớp để học! Nửa vạn học sinh nghèo Cần Thơ đang mong đợi! Đó là tiếng kêu tha thiết của đa số thiếu niên, đó là nhu cầu cấp bách không thua các thứ nhu cầu khác của cơ thể.
Diệm nghe những tiếng kêu ấy chắc nghĩ bụng: “Quái! Thế xây thêm nhà tù, và các trại giam tập trung không phải là nhu cầu cấp bách à?”
2. Lại nói đến chuyện thanh niên học sinh. Một cô giáo phải kêu: Vào lớp giảng bài, chúng có thèm nghe đâu, cứ lén lút đọc những thơ tình.
Ở những góc phố người ta hiếp một em bé lên chín… em bé chết, giết người giữa ban ngày, cướp ô tô, bắn súng lục v.v…
Báo Lẽ sống viết: “Ảnh hưởng tai hại của những loại sách ba xu ca tụng những ái tình lãng mạn của phim ảnh khiêu dâm, loã thể khoái lạc những cái hôn nồng cháy trên màn ảnh, khiến các học sinh bắt chước rập khuôn trên màn ảnh những cao bồi, đã tạo nên nạn cao bồi lô-can ngoài phố quấy rối xóm giềng…”
Diệm trông thấy và hốt hoảng kêu: Đó, tàn tích thực dân phong kiến thối nát sau tám mươi năm đô hộ…
Đế quốc? Phong kiến? Đồng ý – Nhưng Diệm chỉ còn quên có Diệm thôi!
3. Ông Nguyễn Xuân Hách ở xóm Bình Địa (Phú Nhuận) mới 9 giờ tối, hai tên lạ mặt xông vào nhà bắn ông ngã gục, “viên đạn trúng vào vai ông Hách trổ ra ngoài ghim vào vách. Sau khi thi hành thủ đoạn, hai hung thủ tẩu thoát trong bóng tối”.
Các báo đăng chữ lớn: Án mạng rùng rợn! Một thiếu phụ bị thọc cây vào họng chết thê thảm!
Bà Hoàng Thị Khoá chủ đại lý Rượu Nam Hương giữa đêm bị kẻ lạ mặt đâm trúng ngực!
Một ngôi nhà số 33 đường Nguyễn Huệ, cạnh đội võ trang tuyên truyền của Diệm đã bị cướp kéo vào nhà đâm chết hai người và hai người bị thương!
Cướp đeo mặt nạ, có bọn trang bị bằng tiểu liên chặn cả một chuyến xe đi cướp của hành khách.
Nhà 509 Phan Đình Phùng giữa ban ngày bị cướp liệng lựa đạn hoả mù vào nhà để cướp - ở 1 phố đông một thiếu nữ bị bắt cóc lên tắc-xi lột hết nữ trang - một thiếu nữ khác bị hiếp và hai nhát dao “kết liễu”!
Ăn cắp ôtô có tổ chức như ở Xi-ca-gô.
Diệm lại kêu: Đó là tại tàn tích của thực dân phong kiến.
Đồng ý! Nhưng ở đây Diệm lại chỉ còn quên có Diệm thôi!
4. Diệm nghĩ mọi cách để bảo vệ “thuần phong mỹ tục” phát triển những truyền thống tốt đẹp!
Có đưa ra mấy phương pháp: Chính quyền cấm lưu hành những hình ảnh loã thể! Nhưng sách báo và phim Mỹ lại nhiều những thứ ấy. Thế là một mâu thuẫn.
Cấm chiếu phim cao bồi và tiêu diệt nạn cao bồi… Nhưng phim cao bồi lại là của Mỹ.
Thế là hai mâu thuẫn.
Phát triển văn hoá lành mạnh, nhưng báo Lẽ sống lại viết: vì thiếu điều kiện và phương tiện hơn nữa ít sự nâng đỡ cho nên việc xuất bản sách báo ấy cũng chết dần chết mòn!
Ở miền Nam chỉ còn hai thứ mà Ngô Đình Diệm không thể chết dần, chết mòn được: đó là đế quốc Mỹ và Ngô Đình Diệm.
Hoàng Tích Linh
Xem mặt vợ
(kịch ngắn một hồi)
Thời gian
Mùa thu, sáng chủ nhật
Nhân vật
Nguyện, ngoài 30 tuổi, công nhân
Chị Nguyện, ngoài 30, bán hàng xén, tổ trưởng phụ nữ khu phố
Tấn, 25 tuổi, cán bộ công trường
Lan, 20 tuổi, bán hàng ở mậu dịch
Dung, 18, y tá 1 cơ quan
Bài trí
Nhà Nguyện ở một ngõ lao động. Căn buồng vuông vắn có mảnh vải hoa bạc ngăn đôi. Cửa phía trong, trông ra mảnh vườn nhỏ và bếp. Đồ đạc sơ sài mấy tấm phản, tràng kỷ, bàn ghế. Đồ chơi trẻ con bày khắp nhà. Tường treo nhiều ảnh chụp và tranh "Công nhân kiến thiết", tranh "Thống nhất", tranh "Bác Hồ với thiếu nhi".
Màn mở lên
Cửa sổ và cửa trông ra phố mở tung. Nắng tràn vào trong nhà, những bức tranh màu sáng rực rỡ. Ngoài phố cảnh tấp nập một sáng chủ nhật.
Trên giường, anh Nguyện chăm chú chữa radio. Chị Nguyện nhanh nhẹn vắt lại cất màn, chiếu, quét giường.
CHỊ NGUYỆN, dáng vội vã – 7 rưỡi rồi. Cô ấy cũng sắp đến, nhà cửa lủng củng thế này, cô ấy lại chẳng cười cho (vui vẻ thu dọn bàn ghế, một chiếc ghế đổ).
NGUYỆN vẫn lúi húi chữa, không ngửng đầu lên – Cái gì thế?
CHỊ NGUYỆN nhìn chồng – Anh ngồi sù sù từ sáng đến giờ cũng không biết bảo con để nó bày bừa ra nhà (thu dọn đinh ốc, bóng đèn trên giường). Con bày, bố cũng lại bày, ai chịu được. Để tôi mang vào trong nhà mà chữa nhá!
NGUYỆN – Cái gì?
CHỊ NGUYỆN – Cô ấy hẹn sáng nay đến chơi đấy! Ai lại nhà cửa luộm thuộm thế này trông sao tiện?
NGUYỆN – Cô ấy đến xem mặt chú Tấn, chứ xem mặt nhà mình đâu mà sợ. Rõ dở hơi lắm!
CHỊ NGUYỆN – Phải, chẳng biết ai dở hơi. Lúc anh hỏi tôi anh đòi đến xem nhà hàng chục lần thì sao?
NGUYỆN – Thì lúc ấy người ta cũng vờ thế mới xem mặt cô được kỹ chứ. Ai đòi xem nhà làm quái gì!
CHỊ NGUYỆN – Bây giờ việc trăm năm của chú Tấn phận mình là anh chị phải trông nom. Cảnh nhà mình lao động chẳng có gì, lại càng phải giữ thể diện cho chú ấy. Anh cứ để mặc tôi thu xếp… Tôi đã dạm hỏi cả thẩy mấy đám. Chỉ có đám cô Dung này ưng ý nhất cả. Ít tuổi, tiến bộ, mẫu mực, lại có công tác tự túc được rồi. Chú Tấn nhà ta mà lấy được thì đẹp đôi lắm!
NGUYỆN – Biết vậy, còn tuỳ chú ấy chọn.
CHỊ NGUYỆN – Ai không biết là tuỳ chú ấy. Nhưng cũng phải biết ba bảy đường tuỳ. Giá chú ấy công tác ngay Hà Nội thì cũng còn dễ. Đằng này chú ấy công tác xa mới về, mình phải chọn nơi nào đích đáng nơi ấy, chú Tấn với người ta chỉ gặp mặt nhau có một lần là xong việc rồi chứ!
NGUYỆN – Xem mặt xong rồi cưới ngay…
CHỊ NGUYỆN – Chứ lại dề dà như anh ấy à. Tôi tính chú ấy được nghỉ phép ba tuần. Lỡ dịp này lại xin phép khó khăn ra. Bên nhà người ta mới xem ảnh cũng đã thuận ý rồi. Sáng nay chú cô ấy gặp gỡ nhau xong là cưới phắt ngay được.
NGUYỆN – Cô cứ nói như mai cưới ngay được rồi ấy! Việc lấy nhau bây giờ người ta còn tìm hiểu nhau chán ra kia rồi mới đặt thành vấn đề hẳn hoi được.
CHỊ NGUYỆN – Ấy gặp nhau khắc hiểu nhau ngay chứ khó gì. Giai chưa vợ, gái chưa chồng bắt duyên nhau lắm. Con gái đang ế chồng khối kia!
NGUYỆN – Đã chắc chú ấy bằng lòng chưa?
CHỊ NGUYỆN – Sao lại chẳng bằng lòng. Tôi đến chơi dò hỏi tính nết cô ta kỹ lắm rồi.
NGUYỆN bật cười – Thế ngộ nhỡ chú ấy không thích thì mình cũng bắt chú ấy phải thích à?
CHỊ NGUYỆN – Chẳng còn đám nào hơn đám này đâu. Được cả hai chị em. Nhưng cô em là cô Dung mới có 18 tuổi. Trẻ măng mà ăn nói đã chững chạc ra vẻ cán bộ lắm rồi. Tôi xem ý chú Tấn cũng tán thành món cô Dung đấy (gọi với trong sân) chú Tấn, chú Tấn ơi! Hãy nghỉ tay ra đây nói chuyện.
Tiếng Tấn ngoài vườn.
NGUYỆN – Này, thế còn cô chị?
CHỊ NGUYỆN – Cô Lan hơn em hai tuổi. Nhà ấy được cả hai đều xinh xắn cả.
NGUYỆN – À … thế để chú ấy gặp cả hai rồi thuận ý ai thì lấy.
CHỊ NGUYỆN – Sao anh lại cứ bàn lằng nhằng thế. Giới thiệu cô chị làm gì thêm nhiễu chuyện ra. Cô chị tự nhiên lắm. Còn cô em nền nếp hơn lại có nghề trong tay. Tôi đã cân nhắc chán rồi. Chú Tấn công tác trên rừng trên rú phải tính lấy người biết thuốc men trong nom săn sóc mới được. Chú Tấn mà không lấy được cũng hớ.
NGUYỆN – Ờ, cứ kể thế thì lấy được đấy!
CHỊ NGUYỆN cười – Anh rõ thật "quan bẩy cũng gật, quan tư cũng ừ" chẳng ra làm sao. Chú Tấn còn tinh hơn anh nhiều.
Tấn ra, nét mặt hí hửng.
TẤN – Anh chị nói xấu gì em thế?
CHỊ NGUYỆN – Chú ra đây. Tôi đang nói xấu chú đây này. Người đến là đoảng. Bàn chuyện cứ hay bàn ngang. Việc của chú có dở dang, chú cứ bắt đền anh đấy.
TẤN – Em bắt đến cả chị nữa.
CHỊ NGUYỆN – Tôi tính đâu vào đấy rồi. Chú nghỉ chẳng được bao ngày. Nhân tiện chú cần tiêm cho dứt nọc sốt rét đi. Tôi sẽ mách cô ấy từ mai ngày ngày đến trông nom thuốc men cho chú. Chú, cô tha hồ có cớ đi lại nói chuyện bàn bạc với nhau, thế có phải tiện cho mọi đường không?
NGUYỆN – Cô bàn cách ấy được đấy.
CHỊ NGUYỆN – Bây giờ xem mặt nhau cũng đã dễ dàng lắm đấy. Trước kia hồi xem mặt tôi, anh chú long đong hàng mấy tháng mà có được tích sự gì đâu. Ngày ngày đi qua hàng tôi, tiền đã chẳng có lại còn vờ hỏi hết thứ này đến thứ khác. Được thế, tôi càng trêu dấn. Lắm lúc nghĩ đến tức cười. Còn việc của chú tôi tính như thế, chú thấy thế nào?
TẤN – Cũng còn phải xem ý tứ cô ấy thế nào đã chứ.
CHỊ NGUYỆN sốt sắng – Tôi biết cả đôi bên. Từ hoà bình được học tập cô ấy tiến bộ nhanh lắm, gương mẫu nhất cơ quan đấy. Đôi bên hợp lắm rồi. Chú chẳng phải đắn đo gì nữa đâu.
NGUYỆN – Ấy… việc này không hấp tấp được. Chú phải tìm hiểu cho thật chắc chắn đi. Thời buổi này phải hợp tình hợp ý, đôi bên thoả thuận cả mới nên lấy nhau. Sau này còn ăn đời ở kiếp với nhau không phải thắc mắc mảy may gì nữa có hơn không?
TẤN – Có thế nào cũng còn phải hỏi ý kiến anh chị nữa.
NGUYỆN – Cứ ý chú là chính. Anh chị có ý kiến chỉ là phụ thôi. Việc này dân chủ bơn bớt mới được. Bàn quá là nát. Lúc tôi lấy chị cũng vậy. Hai đứa ưng thuận nhau là lấy ngay, giá lại đưa cho ông anh, bà chị, ông chú bà thím bàn ra tán vào thì cũng chẳng xong đâu.
CHỊ NGUYỆN – Việc chú chẳng khó đâu. Người ta cũng dễ tính thôi. Chỉ cần chú với cô Dung quyết định nữa là xong.
NGUYỆN – Chú được nghỉ ba tuần phải tiến hành thế này mới chóng vánh được. Tuần đầu tìm hiểu, hai tuần sau cưới. Còn mọi việc cưới xin ra sao, chú chẳng phải lo. Đã có chị, chị làm tổ trưởng phụ nữ khu phố tổ chức tập thể quen rồi.
CHỊ NGUYỆN – Mọi việc tôi đã tính toán đâu vào đấy. Chính quyền mời ai, khu phố mời ai, ban văn nghệ liên hoan thế nào đã sẵn sàng cả rồi chú không ngại việc đó.
NGUYỆN – Thôi phiên phiến thôi. Người ta đến dự cưới chứ có đi họp đâu. Cô đã dự nhiều đám rồi về kêu ca mãi mà bây giờ lại còn bày vẽ ra…
Cô Lan đỗ xe đạp ngoài cửa.
CHỊ NGUYỆN, thấy trước, giục chồng – Đấy các cô ấy đã đến kia. Nhanh tay lên anh (Nguyện mang vội đồ chữa ra-đi-ô vào trong nhà. Chị Nguyện vui vẻ bảo Tấn) Kìa chú, chú cũng vào thay quần áo đi. Ai mặc áo lót thế kia mà lại định xem mặt vợ bao giờ?
Chị Nguyện đon đả ra tận cửa đón.
LAN nhanh nhẹn vui tính – Chị! Lần đầu đến chơi chị lại đến muộn để chị phải đợi lâu quá.
CHỊ NGUYỆN – Cô ngồi đây. Các cô đã hẹn hôm nay chủ nhật lại chơi, tôi yên trí không sáng thì chiều thế nào rồi các cô cũng đến.
LAN – Sợ chị đợi em phải đến trước đấy. Dung bận tí việc đến sau chị ạ.
CHỊ NGUYỆN – Ấy, cứ thấy cô Dung là thấy bận. Công tác của cô ấy vất vả thật. Có lẽ chủ nhật cũng không được rỗi mấy cô nhỉ.
LAN – Em Dung không bận lắm đâu. Công tác như em thôi. Chủ nhật cũng được nghỉ cả ngày. Có hôm nay Dung tạt qua cơ quan báo cáo chắc cũng sắp lại đây.
CHỊ NGUYỆN – Ra thế… tôi lại cứ tưởng… Hôm nay cô lại chơi. Chỗ cô tự nhiên cứ coi như người nhà mới nói thẳng thắn ngay vào việc được…
LAN cười tinh ý – Em biết loáng thoáng rồi. Hôm nọ bác Phúc có đưa cho chúng em xem ảnh của anh Tấn. Nếu hợp tình hợp tính thì càng tốt. Đằng em với bên nhà chị lại thành chỗ người nhà chị nhỉ?
CHỊ NGUYỆN – Thế còn gì bằng nữa. Chú em nhà tôi năm nay 24 tuổi rồi đấy. Nói chuyện vợ con cứ chối đây đẩy. Tính người cũng dễ dãi. Là người kháng chiến thật đấy mà ăn nói còn lúng túng lắm.
LAN – Bây giờ phụ nữ chúng em mong lấy chồng hay chứ chẳng cần người nói hay, chị ạ.
CHỊ NGUYỆN – Vẫn biết thế… nhưng cách thức Hà Nội ta biết ăn nói vẫn hơn có phải không cô?
LAN hóm hỉnh – Chúng em đã bảo nhau rồi. Chồng con không cùng một chí hướng cũng cắt đứt. Không chồng suốt đời cũng được.
CHỊ NGUYỆN cũng cười – Cô nào cũng nói như vậy mà chả cô nào cứng rắn mãi được đâu. (Tấn ra) cô Lan đến chơi… Chú ngồi đây.
LAN tự nhiên – Anh công tác ở công trường.
TẤN – Vâng, ở công trường cầu cống.
LAN – Vui lắm phải không anh?
Chị Nguyện lặng lặng mang ấm nước vào.
TẤN tự nhiên hơn – Thích nhất chỗ công trường tôi làm là công trường động. Ở chỗ này vài tháng xong việc lại chuyển đi nơi khác. Hai năm nay chuyển ba lần. Hết Bắc Giang lại Việt Trì rồi Lao Kay. Rồi sắp vào Thanh, xuống Vinh.
LAN – Công tác của anh được đi nhiều nơi thích nhỉ.
TẤN sôi nổi – Sau này thống nhất, con đường còn dài, còn nhiều cầu cống, còn khai phá nhiều đường mới. Chỉ sợ chân mình không đi hết được. Tính tôi quen từ nhỏ như hòn bi, ngồi lì ở một chỗ không chịu nổi.
LAN – Thế những người ngồi lì mãi Hà Nội thì anh bảo sao?
TẤN – Tại mỗi người một tính, một nết. Hợp đâu, thích đấy.
LAN – Thế chắc anh không thích Hà Nội.
TẤN – Hà Nội lại khác. Năm 50 tôi còn học kỹ nghệ, sau thích hoạt động mới bỏ học ra kháng chiến. Công tác xa Hà Nội thực, nhưng vẫn nhớ chứ. Tôi thích công tác liên miên vài tháng mới lại về Hà Nội một lần.
LAN – Nghe anh nói cũng thích rồi, công tác hợp mới phấn khởi được (hơi buồn) công tác tôi lại khác hẳn anh.
TẤN – Tưởng chị làm ở mậu dịch đông người mua bán chắc phải tấp nập suốt ngày.
LAN – Bề ngoài thế thôi, trông vui mắt nhưng buồn lắm, anh ạ. Ngày hai buổi lại bán hàng, lại ghi sổ, lại thu tiền. Mà khách hàng khó tính không chịu được. Lắm lúc bực gắt lại bị phê bình.
TẤN – Tại chị chưa quen đấy.
LAN – Không phải quen đâu. Phê bình không đúng mới bực mình chứ.
TẤN đùa – Chị nói thế chẳng ma nào muốn xin vào mậu dịch bán hàng nữa.
LAN cười – Thì anh vừa bảo, tại mỗi người một nết, hợp đâu thích đấy, (nghĩ ngợi) chỉ tại cần phải đi làm để đỡ cho mợ tôi ở nhà quấn chỉ kiếm không đủ nuôi các em đi học. Tính tôi lại thích bay bổng, nhưng bay bổng khác anh kia. Tôi đang học thêm nhạc. Rồi tôi sẽ hát ở đài phát thanh. Lúc ấy tiếng hát của tôi sẽ vang đi khắp nơi, tôi sẽ hát cho mọi người nghe… Tôi tin là tôi phục vụ được nhiều hơn bây giờ.
TẤN – À… lúc ấy tôi công tác xa mà nghe được tiếng hát của người mình quen biết chắc thích hơn cả.
LAN – Anh cũng thích hát à?
TẤN – Tôi không biết hát nhưng thích nghe hát. Tính tôi như ngựa lồng thế này không thích ca hát sao được. Tôi cho chỉ có bụt là không thích nghe hát mà thôi.
Hai người cùng cười thân mật hơn. Chị Nguyện mang nước ra, chợt thấy, hơi khó chịu, lại lẳng lặng quay vào.
LAN – Nhiều người không thích hát chứ. Mợ tôi, cả Dung cũng thế. Chỉ có mấy em nhỏ là nó thích bắt tôi hát luôn. Mợ tôi bực lắm, nhưng tôi lại hát để tập dượt nhân thể.
TẤN – Thế chị hát cho tôi nghe một bài. Lần đầu gặp chị lại được nghe chị hát.
LAN tự nhiên ngượng nghịu – Ai lại thế bao giờ. Lần khác, anh ạ.
Yên lặng, Tấn suy nghĩ nhìn Lan.
LAN – Ờ, sao mãi Dung không lại? (lảng sang chuyện khác) Anh còn nghỉ, mời anh lại chơi nhà.
TẤN – Tôi mong thế lắm. Cũng muốn đến luôn. Chỉ sợ phiền…
LAN – Có gì là phiền đâu. Anh cứ đến chơi. Tối nào Dung cũng có nhà. Quen chị ở đây là được biết anh, mà tính anh tự nhiên càng dễ gần hơn chứ.
TẤN vui vẻ – Thế tôi sẽ đến luôn. Và chị phải hát nhé. Rồi tôi sẽ cho chị xem nhưng kỷ niệm kháng chiến của tôi.
LAN – Ờ… thế anh phải cho tôi xem trước rồi tôi mới hát.
TẤN – Mà chị phải hát thật hay kia.
LAN cười– Nhất định thế. Tiện bây giờ anh lấy cho xem trước đi.
TẤN thân mật – Nhưng chị cũng phải hát ngay đấy nhé. (Chạy vào trong đem túi dết ra) Công tác nay đây mai đó rất cần kỷ niệm (giở túi dết, tư lự) giở cho chị xem, chị hiểu được hết đời tôi đấy.
Hai người sát vai nhau.
TẤN – Đây, chiếc túi gấm thêu và con dao là của mẹ nuôi người Thổ, chợ Chu, hồi bà cụ còn con gái. Hôm bà cụ sắp chết, không chôn theo, bà cụ cho đứa con nuôi người Kinh làm kỷ niệm. Cứ một vật này hôm nào lại chơi tôi kể cho chị nghe cũng nhiều chuyện rồi. Có lẽ để tôi giở cho chị xem trước tập ảnh thì hơn.
Hai người cùng nhau giở chung ảnh. Anh Nguyện ra lấy cái dùi ở giường đằng sau. Cả hai cùng không biết.
TẤN – Ra kháng chiến tôi vào ngay bộ đội. Ảnh này chụp ở cầu Hàm Rồng sau chiến dịch Hà Nam Ninh, đây là những ảnh dân công khi tôi chuyển sang công tác ở Sông Đà. Đây, ảnh mẹ nuôi tôi. Và ảnh tôi mới chụp.
LAN xem kỹ – Ảnh này đẹp hơn ảnh bác Phúc cho xem trước (nhìn Tấn). Trông trẻ mà giống anh hơn (cười). Thế mà anh lại định giấu diếm.
Dung vào, áo cán bộ màu xanh. Cả hai vẫn không biết. Dung ngập ngừng không đánh tiếng.
CHỊ NGUYỆN vừa ra trông thấy – Kìa cô Dung. Cô vào đây. Đợi mãi cô.
DUNG – Chị mặc em.
LAN – Sao chậm thế, hở Dung?
CHỊ NGUYỆN kéo ghế vồn vã – Cô ngồi đây… Chú Tấn lấy hộ chị ấm nước.
DUNG với LAN – Bực quá, chị ạ. Công đoàn gì mà chủ nhật đi chơi hết. Em đợi hơn nửa giờ, chẳng gặp ai.
LAN – Chẳng vội. Lúc nào báo cũng được.
DUNG – Nên báo cáo ngay chị ạ. Công đoàn còn theo rõi giúp đỡ ý kiến chứ.
CHỊ NGUYỆN bảo LAN – Cô Lan này, ra chợ xem gian hàng của tôi đi. Không lại bảo biết nhà mà không biết cửa hàng.
LAN – Vâng… đi đi chị.
Cả hai cùng ra. Tấn và Dung yên lặng.
TẤN – Cô vẫn làm việc?
DUNG – Vâng, tôi làm việc ở Bộ. Ở Bộ bận hơn các cơ quan khác.
Yên lặng.
TẤN – Tôi mới về hôm qua. Được nghỉ hơn 20 ngày.
DUNG – Chỗ anh công tác, y tế phục vụ có báo đảm lắm không?
TẤN – Cũng khá.
DUNG – Công trường càng cần phải tích cực chống sốt rét mới thực hiện được kế hoạch 56.
Lại yên lặng.
TẤN – Tôi về cũng có ý định lập gia đình. Thấy chị tôi nói chuyện nhiều về cô. Trong thời gian nghỉ mong được trao đổi với cô.
DUNG – Vâng, … Việc này anh hãy thư thả. Mợ tôi cũng đã biết rồi. Nhưng tôi chưa báo cáo Công đoàn. Tôi định đến nhưng không gặp.
TẤN – Trước hết là chúng ta tìm hiểu nhau đã.
DUNG – Theo ý tôi trước hết là tổ chức cơ quan phải biết đã. Như vậy đảm bảo hơn.
TẤN – Vâng, thế cũng được.
DUNG – Bộ không định hẳn nguyên tắc đó. Nhưng chính bây giờ tôi lại thấy cần phải có tổ chức xây dựng cho mình. Mợ tôi cũng thấy thế là đúng.
TẤN – Tôi cũng không phản đối việc đấy.
DUNG – Như vậy chỉ có lợi mà không ảnh hưởng đến sau này phải không anh? Về điểm này tôi và anh cùng giống ý nhau rồi đấy.
TẤN bắt đầu khó chịu – Vâng.
DUNG – Còn khó khăn nữa là tôi với anh công tác không những xa mà lại khác ngành nhau. Ăn ở với nhau rồi khó.
TẤN – Sau này sắp xếp công tác cùng một cơ quan cũng dễ thôi. Cái khó là sợ không cùng một chí hướng, tình cảm.
DUNG – Tôi tưởng chúng ta cùng phục vụ cho cách mạng là cùng một chí hướng rồi. Hơn nữa, anh lại là gia đình công nhân, thế càng tốt.
TẤN – Vâng.
DUNG – Tôi về, anh ạ. Tôi báo cáo với Công đoàn rồi lại gặp anh. Đến tối… à tuần này tôi mắc học cả. Có gì, lại sáng chủ nhật sau, anh nhé.
Lan vào hơi ngạc nhiên.
LAN – Dung đã về à? Ngồi đây chơi đợi chị Nguyện.
DUNG – Chị về sau.
LAN – Này, Dung đi đâu vội thế?
Dung vẫn đứng cửa.
LAN – Anh Tấn nghỉ phép không lâu đâu. Công tác xa ốm yếu xanh lắm, cũng cần tiêm cho khoẻ. Có thuốc sẵn rồi. Dung xem giờ nào tiện, ngày ngày đến tiêm cho anh Tấn.
DUNG nghĩ ngợi – Cũng hơi phiền, chị nhỉ (một lát). Thế chưa tiện đâu. Để em báo cáo với cơ quan đã. Sáng chủ nhật sau, chị ạ…
LAN băn khoăn – Dung, Sao Dung phải để đến tuần lễ sau mới lại được? Dung nghĩ xem: Anh Tấn được nghỉ phép có ít ngày. (Không tiện nói hết ý mình, như nằn nì với em) Dung đến vào buổi tối thôi mà.
DUNG thản nhiên – Tuần lễ này buổi tối em bận mà vấn đề của em với anh Tấn nên nghiên cứu kỹ về mọi mặt… Em không thể làm hơn được. Đến chủ nhật sau chưa muộn. Thôi em về đây, chào anh nhá.
Dung ra vội, Lan cũng lúng túng đứng dậy.
TẤN – Chị cũng lại định về ?
LAN – Không… không… Phiền quá nhỉ! Hay là, chiều anh lại chơi với mẹ em? Dung có nhà đấy.
TẤN – Tôi không cần tiêm và cũng không cần…
LAN sốt sắng – Cần lắm chứ. Anh cần phải khoẻ. Anh còn phải công tác nhiều.
TẤN – Không, tôi không muốn (tha thiết nhìn Lan) Tôi mong cô hiểu…
LAN cảm động – Để tôi bảo Dung.
TẤN – Không, Không! (càng tha thiết) Cô Lan!
LAN thêm lúng túng – Anh bảo gì em kia?
TẤN cũng lúng túng – Tôi muốn nói chuyện với cô… cô Lan!
LAN ngượng– Vâng.
TẤN sôi nổi âu yếm – Lan! Biết Lan, tôi thấy mến Lan hơn, tôi không thể…
LAN thẹn nhưng sung sướng – Em không… Ai lại thế bao giờ? Em về đây (bỏ chạy ra cửa).
TẤN – Cô Lan, Lan (chạy vào trong nhà, dắt xe đạp ra, nói với) Anh cho em mượn xe đạp một lát nhé.
Đến cửa gặp chị Nguyện về.
CHỊ NGUYỆN ngạc nhiên – Chú vội đi đâu đấy!
Tấn không kịp trả lời, lên xe hấp tấp. Anh Nguyện cũng vừa ra.
CHỊ NGUYỆN – Cô Dung đâu?
ANH NGUYỆN – Ai biết đâu đấy!
CHỊ NGUYỆN – Sao chú Tấn lại đi với cô Lan?
ANH NGUYỆN – Lạ thật! Sao mình lại hỏi tôi? Chú Tấn chọn vợ chứ mình chọn vợ à? Dở hơi lắm! Thôi mình vào khiêng giả lại tôi cái radio ra chữa đây.
Hai người cùng cười. Vào phía trong.
Màn từ từ khép theo.
2-9-56
Tranh châm biếm, ký tên Pha Y, vẽ hai người. Một người cầm hai chiếc mũ, trên mũ ghi "Bất mãn, tiêu cực", hỏi: “Sao ‘trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng’ mà anh cứ lầm lỳ và không sáng tác được gì?”
Người kia đội một chồng mũ, trên mũ ghi "Địa chủ, phản ứng, tả khuynh, hữu khuynh, tiểu tư sản, mất cảnh giác, mất lập trường", trả lời: “Anh cứ trông đầu tôi thì biết”.
Elsa Triolet
Alexandre Fadéev
Tử Phác dịch
(Fa-đê-ép sinh năm 1901, con một y sĩ ở nông thôn nước Nga. Sau khi gia đình rời đi Si-bi-ri là năm, Fa-đê-ép theo học Vla-đi-vô-stốc. Năm 1918 vào Đảng Cộng sản, hoạt động bí mật trong phái Bôn-sơ-vích, chiến đấu chống quân Bạch Nga của tướng Côn-chát (Kolt-chak) và bọn can thiệp Nhật Bản. Bắt đầu vào nghề viết văn từ năm 1922. Từ năm 1926 là một trong những người sáng lập và lãnh đạo Hội các nhà văn Liên Xô, làm Chủ tịch Hội suốt 15 năm liền.
Fa-đê-ép là đại biểu trong Xô-viết tối cao Liên Xô, hai lần được bầu vào Trung ương Đảng do Đại hội lần thứ 18 và Đại hội 19. Tới Đại hội 20 mới đây thì được bầu là uỷ viên dự khuyết của Trung ương Đảng. Fa-đê-ép là uỷ viên Hội đồng Hoà bình thế giới. Theo báo „Études soviétques“ số 33, tháng 6 năm 1956 thì trong một cơn đau và thần kinh hệ bị rối loạn. Fa-đê-ép đã tự sát ngày 13-5-56. Lúc đó ông 54 tuổi.)
Fa-đê-ép đã chết rồi. Fa-đê-ép mất đi là mất theo cả một thời kỳ của văn học Xô-viết. Cả một thời kỳ của cuộc sống Xô-viết. Và cả một thời kỳ của đời sống chúng ta nữa, vì chúng ta là những người đã đem cuộc đời của bản thân mình gắn liền với cuộc sống của Xô-viết ấy.
Năm 1930, tôi cùng với A-ra-gông và Gioóc-sa-đun đi dự hội nghị các nhà văn ở Khắc-cốp. Tôi đã gặp Fa-đê-ép lần đầu tiên ở đó, khi hội nghị đã gần bế mạc mới thấy anh ta đến. Người anh ta lớn và rất gầy. Tất cả hành lý chỉ có một chiếc cặp nhét đầy phồng lên.
Mốt-scu hồi đó chưa có những dinh thự như Mốt-scu bây giờ. Mỗi lần ở cuộc họp ra về thì phải tìm lấy một chỗ mà trú thân. Fa-đê-ép đưa A-ra-gông và tôi về chỗ ở của anh ta, một căn buồng nhỏ xíu trong dãy nhà ngang của toà nhà Héc-den lúc đó dùng làm trụ sở của Hội các nhà văn. Trong buồng có một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, còn cái khả năng tắm giặt thì mong manh lắm. Fa-đê-ép đi ngủ chỗ khác, bất kỳ là ở đâu, đem theo chiếc cặp đầy phồng, bước chân đi nhẹ nhàng, rõ là một người không hề bị đồ đạc ràng buộc bao giờ, vì vốn là không hề có đồ đạc gì cả… Fa-đê-ép là cái loại người đi ra phố tưởng chỉ là đi mua bao thuốc lá thế mà rất có thể hai năm sau mới trở về…
Hồi đó, đối với tôi, Fa-đê-ép là cả một sự bí mật, khó hiểu hơn cả một người Trung Hoa. Điều đó, tôi cũng đã từng nói thẳng cho anh ta biết, vì thường là tôi không đồng ý được với anh ta về các vấn đề nghệ thuật. Fa-đê-ép là một trong những người lãnh đạo Hội các nhà văn vô sản (RAPP). Ít lâu sau, hội này bị giải tán. Chắc hẳn anh ta đã nhận ra những sai lầm của hội đó, nhưng vẫn còn giữ lấy những tàn tích của nó.
(Sau Cách mạng tháng 10, văn học Nga có nhiều môn phái: nhóm Bạn đường của A.Tolstoi, nhóm vị lai của Maiakovski, nhóm hiện thực của M.Gork, có người theo cổ điển như Trichunv, có người còn mới nguyên như Simonov, có nhóm độc lập tự do như Ehrenbourg, có người theo khuynh hướng Trotsky như Zonine… nhưng đông và thế lực hơn cả các phái là nhóm “vô sản”. Họ lập các tổ chức như Proletkult, Octobre, V.A.P.P và R.A.P.P. Fa-đê-ép ở trong tổ chức đó. Các nhà văn đảng viên ấy dựa vào bộ máy của Bộ văn hoá, Bộ giáo dục v.v… để chuyên chính trên lĩnh vực văn học và tự coi khuynh hướng của các tổ chức nhà văn “vô sản” là chính thống cách mạng. Tới 1925, thì Lê-nin chủ trương “không giao độc quyền cho một tổ chức nào, dù tổ chức ấy có vô sản nhất về mặt tư tưởng, vì làm như thế trước hết là cho nền văn học vô sản bị thất bại”, mà phải xây dựng một “nền văn học chung cho cả một giai cấp vĩ đại đang đấu tranh và thu hút theo mình hàng triệu nông dân” [Trích trong nghị quyết của Trung ương Đảng Cộng sản Bô-sê-vích Liên Xô năm 1925.] Do đó mà Lê-nin đã đặt được đường lối cho Đảng lãnh đạo văn nghệ, đã giải quyết được các vấn đề sáng tác, phê bình và tổ chức văn nghệ, tập hợp được mọi khuynh hướng nghệ thuật khác nhau; những nhà văn kể trên, sau này đều trở thành những nhà văn Xô-viết chân chính.)
Nhà văn Fa-đê-ép có nhiều đức tính xuất sắc của nhà chính trị. Anh ta tiến hành một đường lối văn học, một cuộc đấu tranh trên măt trận văn học, và đặt chân lên một miếng đất chuyển động. Nhưng anh ta không sáng tác. Lại có một vấn đề nữa mà không bao giờ tôi chịu nghe ra lẽ: đó là vấn đề Mai-cốp-ski. Về vấn đề này hai chúng tôi mâu thuẫn sâu sắc.
(Maiakovski thoạt đầu tham gia nhóm Vị lai – Futurisme-, sau dần dần phát triển bản sắc nghệ thuật của mình lên thành một khuynh hướng riêng biệt..., chuyên chính của phái các nhà văn “vô sản” nắm chính quyền văn nghệ lúc bấy giờ, Maiakovski xin ra khỏi Đảng làm nghệ sĩ tự do, đi vẽ tranh quảng cáo để sinh sống mà làm thơ. Thơ làm ra không xuất bản được, thì Maiakovski tự đi vào các xưởng thợ đọc thơ mình cho công nhân nghe để truyền bá lấy tác phẩm của mình. Suốt đời Maiakovski bị khinh rẻ, vùi dập cả con người lẫn thơ ca. Nhưng ở Liên Xô và nước ngoài thời đó cũng đã có một số rất ít người bênh vực thơ Maiakovski, trong số đó có Elsa Triolet.)
Tác phẩm đầu tay của Fa-đê-ép là cuốn Thất bại. Tác phẩm này đã đưa tác giả tới chỗ vinh quang. Sau đó, Fa-đê-ép có bắt tay vào xây dựng một tiểu thuyết lớn là Người U-đe-ghê cuối cùng, nhưng tác giả bị mắc sa lầy vào đó đến nỗi chính bản thân cũng chỉ coi nó là một chuyện đùa và một chuyện đau lòng mà thôi. Trong buồng, Fa-đê-ép có một cuốn Thất bại in khổ nhỏ, đóng lại rất cẩn thận, đặt trên ngăn sách, và khi chúng tôi sắp lên đường về nước thì Fa-đê-ép nhất định cứ muốn tặng tôi cuốn sách đó. Tôi muốn từ chối thì Fa-đê-ép bảo tôi rằng hễ đãi nhau có phải chịu thiệt thòi đôi chút thì mới quí!…
Fa-đê-ép tới Paris lần đầu vào năm 1935, dự “Hội nghị quốc tế các nhà văn để bảo vệ văn hoá chung” lần thứ nhất. Lần sau là nhân dịp một đoàn nhà văn của tất cả các nước đi thăm Y-pha-nho, năm 1937.
Hồi đó, Fa-đê-ép còn trẻ, đang yêu và đang sung sướng… Hồi đó Fa-đê-ép đang tràn đầy tin tưởng ở sự đúng đắn và ở công lý của đất nước mình! Anh ta cười, giọng cười oang oang, tràn đầy niềm vui và tự tin. Đoạn sau của cuốn Người U-đe-ghê cuối cùng vẫn chưa viết được.
Mãi tới khi có chiến tranh mới thấy tác phẩm lớn thứ hai của Fa-đê-ép ra đời.
Tôi không có mặt ở Nga trong khoảng 1936 đến 1945. Mọi việc xảy ra, tôi đều chỉ nghe nói mà thôi. Giữa nỗi vui mừng được gặp lại Fa-đê-ép sau chiến tranh, xuýt nữa chúng tôi nối lại được tình bạn xưa. Fa-đê-ép tiếp chúng tôi tại đát-cha của anh, một toà biệt thự để nghỉ mát ở gần Mốt-scu. Vợ anh và các con riêng của vợ anh cũng ở đó. Và cũng như ngày xưa anh đã đưa cho tôi một cuốn Thất bại đóng bìa bằng da, thì nay ở đây anh cho tôi hai quả táo to, hai quả táo đầu tiên và duy nhất của một cây táo non trong vườn nhà anh mới thụ quả lần đầu, anh cho tôi và chịu thiệt thòi đôi chút… Lại còn những buổi đón tiếp đông đảo và chính thức tại biệt thự lớn của anh ở Mốt-scu; toà nhà này có vẻ là một nơi không có người ở, là một nơi bày đặt sẵn đồ vật chứ không có qua một vật nào mang cá tính của chủ nhân, như một thứ Lê-vi-tăng Xô-viết, có bọc nhung như là xanh thì phải. Ở đây, Fa-đê-ép không phải là ở nhà mình thực, không hợp được, mà cũng không thiết nữa vì Fa-đê-ép vốn là thứ người sinh ra để ngủ được dưới tấm chăn mỏng của người bộ đội.
Năm 1930, Fa-đê-ép đã gây cho tôi một ấn tượng bí mật. Đến nay, Fa-đê-ép này lại gây cho tôi một loại khó hiểu khác. Điều bí mật trước kia là một vẻ quyến rũ, điều khó hiểu bây giờ chỉ kết luận rằng giữa chúng tôi không còn điều gì nói với nhau nữa. Anh ta là chủ tịch Hội các nhà văn, và đôi khi các nhà văn phản đối cái triều chính của anh ta. Và, nếu các nhà văn còn duy trì anh ta ở địa vị chỉ huy họ, chính vì họ nghĩ rằng xét cho cùng Fa-đê-ép dù sao cũng là một người Bôn-sơ-vích và là một nhà văn… Nhưng cái điều “xét cho cùng” ấy, cần phải đạt tới nó mới được. Mà thường thì không phải là dễ đạt được đâu.
Vả chăng, được bầu làm phó chủ tịch Hội đồng Hoà bình, Fa-đê-ép bây giờ hay nay đi chỗ này mai đi chỗ kia, như một nhà chính trị quan trọng, thông minh, tóc đã bạc đi, nước da quạch lại. Chúng tôi gặp lại anh ở Paris trong cuộc Hội nghị tại nhà Play-en lập ra phong trào chiến sĩ hoà bình, năm 1949, chúng tôi đã nghe thấy quần chúng đông đảo tay cầm những hình chim bồ câu của Pi-cát-xô, miệng hoan hô Fa-đê-ép. Có lẽ, từ buổi đó, Fa-đê-ép đã cống hiến phần nghị lực tinh tuý nhất của mình cho phong trào Hoà bình. Anh tự huỷ trong công việc, tự huỷ vì chúng ta. Nhưng anh vẫn không hề sáng tác gì cả.
gặp Fa-đê-ép lần cuối cùng ở Mốt-scu, vào dịp Đại hội các nhà văn Xô-viết năm 1954.
Fa-đê-ép tới ăn cơm với chúng tôi, ở khách sạn, trong buồng riêng. Vẫn như xưa, vẫn có sự vui mừng được gặp lại nhau… Fa-đê-ép nói rất dài về tập Những người cộng sản của A-ra-gông, bình luận thêm bức thư anh đã viết cho A-ra-gông về vấn đề này. Câu chuyện đã dẫn tới một bài báo cũ Fa-đê-ép viết phản đối tiểu thuyết của Grốt-sman là cuốn Vì một lý tưởng đúng. Tôi không thể nào tha thứ được cho Fa-đê-ép về bài báo đó: anh đã dùng một sức tàn bạo đến cùng cực để tấn công một cuốn tiểu thuyết mà chính anh đã cho đăng lên tờ tạp chí do chính anh phụ trách! Fa-đê-ép giải thích cho tôi hiểu vì đâu anh phải viết bài báo đó: việc này không phải cứ tự nhiên mà thành, anh đã từng bênh vực cuốn tiểu thuyết đó rất lâu, nhưng từ khắp các địa phương đều có thư từ, có nghị quyết gửi về vạch tội cuốn sách đó là một cuốn nguy hại v.v… Thế rồi, anh đâm ra không tin ở bản thân nữa, rút cục tự nghĩ rằng chẳng lẽ tất cả mọi người đều sai mà chỉ có một mình anh là đúng thôi hay sao, chẳng lẽ hàng mấy nghìn độc giả đều sai cả hay sao. Và, đến cuối hội nghị, Fa-đê-ép đọc tham luận, trong đó, ngoài nhiều vấn đề khác, có nói rằng anh chỉ trích tiểu thuyết của Grốt-sman thế là không đúng, và để sửa chữa lại cái tai hại, anh đã sử dụng đến mọi khả năng của anh để làm cho tác phẩm đó được xuất bản, không kể đến mọi sự phản đối. Tôi kể lại việc không hay chính cũng vì nó phải là một đặc điểm của một bộ máy nào đó đã buộc con người ta phải phạm vào những sai lầm như vậy.
(Bài báo này của Fa-đê-ép không những đã tiêu diệt tác phẩm của Vassili Grossman, mà còn xâm phạm cả đến sinh mệnh chính và nghệ thuật của tác giả nữa. Bản thân Fa-đê-ép đã tìm khen tác phẩm đó mà về sau lại lên án nó theo một chính sách tiêu diệt nhân tài như vậy, cho nên việc này đã trở thành một sai lầm rất lớn của Fa-đê-ép mà khi Fa-đê-ép đã chết rồi, dư luận giới văn học Xô-viết vẫn còn ráo riết chỉ trích.)
Cũng trong bữa cơm ấy, chúng tôi nói chuyện với nhau lần cuối cùng và tôi nghĩ lại những lời nói cuối cùng của Fa-đê-ép. Anh bảo tôi:
“Bạn có tin rằng các nhà văn Xô-viết sẽ không bao giờ nhắc đến cái tai hoạ đã xảy ra trên đất nước mình, đến việc kết tội những người vô tội, đến hàng bao nhiêu nghìn tấn thảm kịch đó không?”
Tôi giả nhời anh:
“Tôi không thể nào giả nhời anh điều đó được. Đó là những đề tài không thể nào quyến rũ nổi tôi, đó không phải là những đề tài cho tôi…”
Phải, Fa-đê-ép cần có một đề tài sôi nổi… Và cũng còn cần phải một thời gian dài nữa thì sự anh dũng phi thường của những kẻ vô tội kia mới có thể trở thành một đề tài sôi nổi được. Phải, những kẻ vô tội kia, những con người cộng sản được phục hồi kia đều không chua xót gì cả, đều không có ý phục thù gì cả, điều đó quả thật là kỳ lạ và đáng sôi lòng lên. Đối với họ, cái điều đã xảy ra cho họ, chẳng qua chỉ là một giai đoạn của cuộc đấu tranh.
Lần nói chuyện này vào khoảng cuối năm 1954, khi tất cả những điều đó hãy còn là một bí mật tập thể và rất lớn, điều đó sẽ chỉ ra ánh sáng ở cái phần mà chúng ta được biết qua Đại hội lần thứ 20.
Có một thứ bệnh tiếng Nga gọi là da-pôi (japoi): nó gây ra từng cơn nghiện rượu cứ đúng kỳ lại nổi lên, kỳ hạn lâu hay mau tuỳ người. Giữa hai cơn nghiện, con người vẫn hoàn toàn bình thường. Fa-đê-ép chính đã mắc bệnh đó. Nếu anh ta mắc bệnh từ trước chiến tranh thì bản thân tôi không hề nhận thấy lần nào mà cũng chưa hề nghe thấy ai nói đến việc anh ta mắc bệnh đó cả. Nhưng ngay những chuyến đầu anh tới nước Pháp sau chiến tranh, tuy tôi vẫn chưa hề bắt gặp anh ta say rượu lần nào, mà tôi cũng nhận thấy được rằng trong đời hoạt động của anh, trong sự có mặt của anh đã có những lỗ hổng nào đó rồi.
Vả chăng, con người anh không còn phải là con người của ngày trước nữa. Có lúc tôi thấy thương hại anh một cách hết sức chua xót; lại có nhưng lúc anh ta làm tôi giận vô cùng. Về sau, tôi cho rằng sở dĩ uống rượu là vì đối với anh cuộc đời không còn có thể sống được nữa… Khi tôi được tin rằng từ sau Đại hội lần thứ 20, Fa-đê-ép gần như thường xuyên phải nằm bệnh viện, thì tôi tự hỏi không biết anh ta làm thế nào mà sống cho được nữa, vì bây giờ sức khoẻ anh suy sụp không thể chống đỡ được với bệnh não nữa rồi.
Và anh đã không sống được nữa.
(Trích dịch và chú thích từ Báo Văn học Pháp số 620, từ 17 đến 23-5-56)
Lã Tử
Thật giả khó phân
(Cổ học tinh hoa)
Ở gò Lê Khưu có giống quỷ lạ. Nó bắt trước làm con cháu, anh em người ta thật giống. Có một ông trưởng giả gần vùng ấy, một hôm ở chợ về, chén say khướt, lúc đi qua gò Lê Khưu, con quỉ hiện hình lên làm con ông ta, tay ôm đỡ dìu dắt, nhưng miệng cứ lẩm bẩm nhiếc móc.
Trưởng giả về nhà, lúc tỉnh rượu, gọi con ra mắng: “Tao là cha mày; tao có điều gì ác nghiệt mà lúc tao say mày lại nỡ nhiếc móc tao như vậy!”
Người con khóc, lạy cha và thưa rằng: “Thật con không dám như thế bao giờ. Con nghe đâu ở gò Lê Khưu có giống quỷ khéo bắt chước hiện lên làm người, có lẽ đấy chăng?”
Trưởng giả đi dò hỏi, thì quả nhiên ai cũng bảo có như thế thật. Ông mới định bụng hễ gặp giống quỷ ấy là đâm chết.
Hôm sau, ông lại đi chợ, lại chén say khướt mới về. Người con sợ cha lại gặp quỷ nó quấy nhiễu gì bèn xăm xăm đi đón. Trưởng giả trông rõ con mình, nhưng cho là quỷ, lên rút gươm ra đâm chết.
Trần Công
Chống bè phái trong văn nghệ
(Tiếp theo kỳ trước)
II. Nguyên nhân và tai hại
Nói đến văn nghệ, người ta thường nghĩ tới học phái này học phái nọ. Người ta nghĩ đến những cuộc bút chiến, tranh luận nảy lửa mục đích là càng ngày càng làm giầu thêm kho tàng văn học của nhân loại. Chính ra phải nói đến bè phái là cả một sự đau lòng. Có phải chuyện “vụn vặn giải quyết vài ngày trong nội bộ” như lời gần đây của Thúc Đại không? Sự thực nó không dễ như anh nghĩ đâu. Hiện tượng bè phái trong văn nghệ nghiêm trọng vì bè phái đó lại là một số lớn những người lãnh đạo văn nghệ có vị và có quyền.
Trong kháng chiến, trái tim của con người gần gũi nhau hơn. Cũng mặc áo nâu ngồi bên vỉa đường hút chung điếu thuốc lào, con người văn nghệ hiểu nỗi khổ của nhau thấm thía hơn. Hôm tổng kết học tập, đồng chí Tố Hữu cũng có nhận khuyết điểm là hai năm nay ít gần gũi anh em. Đấy là một hiện tượng xa rời quần chúng. Xa rời quần chúng thì nhất định không rõ tâm lý quần chúng, không rõ tâm lý quần chúng thì những điều chỉ thị xuống chỉ mơ hồ, máy móc không thích hợp. Huống chi bên cạnh mình lại có thêm một số cá nhân hẹp hòi, thiển cận thì đồng chí Tố Hữu bây giờ có thấy anh em phê bình là bè phái, cũng chỉ cho là lời đả kích của “mấy thằng bất mãn”.
Một nguyên nhân của bè phái là kém lý luận. Những người lãnh đạo văn nghệ sở dĩ đã phải cố kết thành một khối để củng cố địa vị, chống đỡ với quần chúng, là vì không có cơ sở lý luận. Do đó, họ đã không “đem trả về cho quần chúng những cái của quần chúng”. Người kém lý luận thường nhìn sự đời bằng con mắt chủ quan, một lối chủ quan duy tâm. Lối nhìn chủ quan duy tâm này nguy hiểm vì nó chỉ dựa trên cảm tính vu vơ, không biện chứng. Tôi xin lấy một đoạn của Hoài Thanh tự phê bình về vụ Trần Dần đăng trong Văn nghệ số 139 để dẫn chứng lối nhìn đời bằng con mắt chủ quan duy tâm đó: “Trong trí tôi nẩy ra ý nghĩ: Trung Quốc có Hồ Phong, biết đâu chúng ta lại không có một Hồ Phong”, và rồi Hoài Thanh suy diễn: “Lúc đầu đọc bài‘Nhất định thắng’ tôi chỉ cảm giác đây là một tâm trạng âm u... Nhưng chẳng mấy chốc tôi đã chuyển sang nghĩ đây là một sự cố tình vu khống”.
Cũng có những người lãnh đạo vốn không bè phái, nhưng do chỗ ở một cương vị lãnh đạo phải giải quyết những yêu cầu của quần chúng văn nghệ sĩ, mà năng lực thì đuối nên rốt cuộc cũng phải dựa vào bè phái để chống chế đối với anh em. Đó là trường hợp đấu tranh chính sách ở Phòng Văn nghệ Quân đội 1955. Lúc anh em văn nghệ sĩ đưa ra thảo luận một bản đề án về chính sách văn nghệ, đại cương có ba điểm lớn:
- Quan hệ giữa văn nghệ và chính trị
- Chủ trương sáng tác rộng rãi, trăm hoa đua nở
- Những điều kiện cần yếu về sinh hoạt của văn nghệ sĩ.
thì một số những người lãnh đạo Văn nghệ Quân đội (trong đó có cả văn nghệ sĩ) luống cuống. Luống cuống vì nhìn không rõ bước tiến tất nhiên của thực tế, không nhìn được xa rộng vấn đề sẽ đi tới đâu. Về sau, khi kiểm điểm sai lầm, một trong những nhà lãnh đạo đó đã thành khẩn nói: “Khi thấy anh em đề ra chính sách tôi thấy là đúng; nhưng khi thấy cấp trên bảo là sai, tôi cũng lại thấy lời cấp trên là đúng”. Rồi đàn áp, chia để trị, bằng mọi biện pháp như kiểu Hoài Thanh: “Ý thức của tôi trong khi tham gia điều khiển cuộc họp là muốn cô lập Trần Dần và tranh thủ những người khác có bài trongGiai phẩm. Cái lối cô lập tranh thủ ấy dựa trên ý định lấy nhiều người đàn áp một người...”
Nguyên nhân thứ hai của bè phái, quan trọng hơn là đầu óc sùng bái cá nhân. Khi đã kém lý luận, suy nghĩ theo lối chủ quan duy tâm thì phải dựa vào ý kiến của cấp trên. Do đó mà một câu hỏi vu vơ hay nhẹ dạ của một cán bộ cấp trên cũng được những người nặng đầu óc sùng bái cho là một chỉ thị. Và cứ thế áp dụng. Cũng anh cán bộ lãnh đạo văn nghệ trong Quân đội trên kia nói: “Trong tình thế ý kiến anh em và ý kiến cấp trên mâu thuẫn thì bao giờ tôi cũng làm theo ý kiến cấp trên chứ không cần suy xét gì nữa”. Cũng cần nói đến đầu óc địa vị của một số văn nghệ sĩ trong Quân đội đã nhẩy lên ghế lãnh đạo phong trào, thừa thế kết bè “làm láo, báo cáo hay”, kìm hãm phong trào văn nghệ trong Quân đội đang lớn mạnh. Tại sao, khi có lệnh gửi ra nước bạn những tác phẩm giá trị của Quân đội để giới thiệu Quân đội Việt Nam anh dũng lại thiếu hai cuốn chuyện Người người lớp lớp của Trần Dần và Vượt Côn Đảo của Phùng Quán mà chỉ thấy một số sách mà toàn quân ít hưởng ứng của một số bè phái văn nghệ sĩ trong Quân đội? Nên xét lại xem việc Tú Nam tự động đóng dấu, lấy quyền ký tên hạ lệnh cho nhà xuất bản Quân đội in hàng vạn cuốn Mất con mất cháu của mình có phải là một hành động lũng loạn không? Trước đó, nhà xuất bản của Hội đã không nhận in vì Mất con mất cháu dở quá. Bài “Một vài sai lầm của lãnh đạo văn nghệ” của Nguyễn Đình Thi (Văn nghệsố 140) không công nhận có bè phái. Nhưng cũng trong bài đó, anh viết: “Số ít người nắm quyền quyết định trở thành tự mãn, độc đoán”, “Bộ phận lãnh đạo trở thành một nhóm đóng cửa, hẹp hòi, cô độc, nể nang lẫn nhau; khi có khuyết điểm thì xuê xoa không thẳng thắn đấu tranh nội bộ và mạnh dạn tự phê bình trước quần chúng”.
Đành rằng tình trạng bè phái của lãnh đạo văn nghệ không xuất phát từ một âm mưu lũng loạn từ đầu. Nhưng trên hiện tượng do anh Thi tự thú và hàng mấy trăm anh em văn nghệ sĩ đã vạch ra trong đợt học tập tháng tám vừa qua, tôi tưởng không cần phải chứng minh thêm gì nữa tính chất bè phái cũng đã quá rõ rệt rồi. Bây giờ đã đến lúc vấn đề không còn là nhận hay không nhận một danh từ nữa mà phải bắt cho đúng mạch, tìm cho đúng bệnh để cứu người ốm. Đừng kéo dài nữa mà tốn tiền, tốn thuốc, lại hại người.
Đảng ta giầu kinh nghiệm đấu tranh. Trung ương ta bao gồm những người con ưu tú của dân tộc. Tại sao xảy ra tình trạng rối ren này? Một phần lớn của vấn đề là do bè phái trung gian đã ngăn cách Trung ương với quần chúng. Đành rằng vì Đảng ta chưa có một chính sách văn nghệ cụ thể. Nhưng giá những người trung gian cứ làm việc đúng công tâm con người cách mạng, rộng rãi, biết nâng đỡ mọi người, thẳng thắn không bao che khuyết điểm thì đâu đến nỗi! Giá thử những năm vừa qua họ trung thành với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm, đừng gạt bỏ ý kiến xây dựng của những người tốt, đừng sống giả dối, thích nghe những lời nịnh hót hay tâng bốc lẫn nhau, thì chúng ta đã có thể cống hiến nhiều sáng tác tốt hơn cho nhân dân và góp cả phần giúp Trung ương xây dựng chính sách văn nghệ nữa.
Cũng do đó mà phong trào văn nghệ chúng ta ì ạch, một chiều, tình thân giữa văn nghệ sĩ với nhau sút kém nặng nề, nhiều văn nghệ sĩ vẫn bị coi rẻ, đời sống văn nghệ sĩ không được bình thường. Văn nghệ là của quần chúng. Phải trả về cho quần chúng. Đảng chỉ khơi nguồn, giúp cho khả năng quần chúng dễ phát huy. Người chịu trách nhiệm lãnh đạo văn nghệ phải lắng nghe ý kiến quần chúng đặng thi hành chính sách của Đảng đúng đường lối quần chúng.
Anh em không cầu mong gì hơn một thái độ thành khẩn của những người lãnh đạo văn nghệ, để sẵn sàng cùng nhau xây dựng một nền văn nghệ phong phú cho dân tộc. Cơn sóng gió hiện nay có yên đi thì mới nói chuyện sáng tác và tiến hành chuẩn bị Đại hội tốt được. Nhưng muốn được thế, những người lãnh đạo văn nghệ phải có thái độ rõ rệt hơn, đừng úp mở nữa; bè phái phải giải thể đi, thì mới tạo nên điều kiện tốt cho Trung ương gần gũi văn nghệ sĩ hơn để lãnh đạo họ bằng một đường lối sát đúng và một chính sách cụ thể.
Không phải truyện cười
Trúc Lâm
Mất mỹ quan
2-9, Thủ đô tưng bừng trong ngày Quốc khánh. Bà con nông dân phấn khởi kéo nhau về dự lễ và xem hội.
Hai bà cháu lân la qua Tràng Tiền tiến đến Nhà hát lớn: Đương bỡ ngỡ không biết ở trong biểu diễn gì và có được vào xem không, thì một đồng chí C.A tiến đến:
"Cụ có giấy mời không?"
"Không ạ."
"Thế thì mời cụ đứng xa xa ra một chút kẻo mất trật tự."
"Đề nghị thầy cho bà cháu tôi đứng xem một tí."
Đồng chí công an cau mặt:
"Đã bảo là không được, mất trật tự.” Nói rồi quay ngoắt đi.
Bà cụ ôn tồn:
"Bà cháu tôi đứng lảnh ở đây, làm gì mà mất trật tự hả thầy?”
Một đồng chí công an khác tới nghiêm nghị giảng giải:
“Không mất trật tự nhưng mất mỹ quan Nhà hát lớn.”
Đứa cháu rời tay bà lúc nào không biết làm bà cụ ngơ ngác:
“Gái ơi! Về đi thôi không mất mỹ quan Nhà hát lớn.”
Y Du
Bổ thận cũng như bổ phổi
Mới nhận được một chiếc séc truy lĩnh. Anh vốn là người yếu phổi. Anh ra cửa hàng mậu dịch bán thuốc.
Lệ mua séc thì phải mua cho kỳ hết số tiền ghi ở séc. Cuối cùng còn đủ để mua một lọ thuốc bổ phổi, mà ngày hết hạn của chiếc séc cũng chẳng còn lâu!
“Cô cho ghi một lọ thuốc bổ phổi.”
“Hết thuốc bổ phổi rồi... chỉ còn thuốc bổ thận thôi!”
Cô hàng cười... Anh cán bộ bị mua thuốc cũng cười... Anh ngần ngừ, cuối cùng mua lọ thuốc bổ thận cho trọn tiền ở séc.
Anh chặc lưỡi:n “Vẽ... biết đâu mình chả yếu thận, còn hơn để séc hết hạn, chả bổ được phổi lại cũng chẳng bổ được thận! Được tý nào hay tý ấy!”
Nguyên tắc
Anh cán bộ kỹ thuật bậc 5 đi khám bệnh đau bụng run... Ở ruột anh có rất nhiều thứ run! Run đũa, run kim... và run v.v... Bệnh đau bụng run của anh cần phải được nằm điều trị ở bệnh viện ấy mới trừ tiệt được những loại run kia, nhưng ở bệnh viện này chỉ có cán bộ kỹ thuật bậc ba mới được nằm điều trị!
Vì vậy người ta cho anh uống thuốc điều trị bệnh run thường mà thôi!... Còn những chứng run khó trị kia... phải chờ đến khi nào anh được hưởng lương kỹ thuật bậc ba... thì chúng sẽ biết tay! Không có trường hợp nào người ta thấy nguyên tắc lương bổng lại có lợi và hợp lý cho... giống run như trường hợp này!
Lại nguyên tắc
Một đồng chí cán bộ bị hỏng tuột cả chân, thịt đỏ loét! Người ta vội đưa đồng chí xuống bệnh viện Bạch Mai! Bệnh viện xét không đúng nguyên tắc nên không nhận!...
Người ta lại đưa anh cán bộ ấy lên bệnh viện Phủ Doãn. Bệnh viện này xét không đúng nguyên tắc nên không nhận!
Do đó chúng ta mới biết thêm một thứ bệnh mới dễ làm chết bệnh nhân như ôn dịch... đó là bệnh Nguyên tắc máy móc!
Bệnh ấy nghe đâu các bệnh viện chưa nghĩ cách chữa.
Tranh châm biếm, ký tắt “SN”, vẽ Hoài Thanh đeo kính, tay phải túm áo ngực Trần Dần, tai trái cầm cuốn sách đề tên Hồ Phong giấu sau lưng. Trần Dần tay cầm cuốn Người người lớp lớp.
Hoài Thanh: Làng nước ôi! Đích thị Hồ Phong đây rồi!
Trần Dần: Thưa đồng chí Vụ trưởng, quả thực tên tôi là Trần Dần, nếu không tin xem lại giấy khai sinh.
Kỷ niệm ngày Vũ Trọng Phụng tạ thế (13-10-1939)
(Hình Vũ Trọng Phụng khi còn là học sinh)
Nhân văn
Thơ ơ với Vũ Trọng Phụng là khuyết điểm lớn
Vũ Trọng Phụng mất năm 27 tuổi. Tác phẩm đầu tay của Vũ Trọng Phụng xuất bản năm anh 21 tuổi. Sáu năm trời, 17 tác phẩm, một trang sáng rực trong lịch sử văn học Việt Nam. Ngòi bút mãnh liệt của Vũ Trọng Phụng đã thích dấu chàm lên trán một xã hội thối nát, lố lăng đến cực độ, để lại những điển hình bất diệt về Nghị Hách, về Xuân Tóc Đỏ, về ông Văn Minh, về Típ-phờ-nờ v.v... Những nhân vật của Vũ Trọng Phụng đã bước ra ngoài trang sách và thâm nhập cuộc đời.
Cái thời đại của SỐ ĐỎ đã qua rồi. Cách mạng đã tấn công bằng súng đạn những cái mà Vũ Trọng Phụng tấn công bằng ngòi bút và đã lật đổ cái chế độ "số đỏ" ấy. Nhưng những di tích, huyết thống, những cái rơi rớt của những nhân vật Vũ TrọngPhụng không là đã hết trong chế độ ta. Ao ước một Vũ Trọng Phụng của Cách mạng (...) những cái thối nát còn sót lại ở miền Bắc và đương ngự trị trong chế độ Ngô Đình Diệm ở miền Nam.
Đã lâu nay thái độ chúng ta đối với Vũ Trọng Phụng không thống nhất. Bên cạnh những người khen hết lời không phải không có những người, tương đối ít hơn, chê cũng hết lời. Nhưng bao trùm trên hết là một thái độ ơ hờ khá phổ biến.
Đó là một hiện tượng không tốt. Dửng dưng với Vũ Trọng Phụng là một khuyết điểm lớn đối với lịch sử văn học, đối với một nhà văn vào bậc nhất của nền tiểu thuyết Việt Nam.
Đề cao Vũ Trọng Phụng, tìm hiểu Vũ Trọng Phụng là một trách nhiệm của chúng ta, không những đối với người đã chết mà còn đối với những người đương sống và cần tìm ở Vũ Trọng Phụng một bài học nhân văn sâu sắc.
Kỷ niệm Vũ Trọng Phụng bằng một hai bài báo chưa đủ, bằng một buổi lễ trọng thể cũng sẽ vẫn chưa đủ.
Mong những cây bút phê bình, lý luận, những nhà văn học sử Việt Nam sẽ nghiên cứu và đánh giá Vũ Trọng Phụng một cách xứng đáng với sự nghiệp văn chương lớn lao của ông.
Một bài bút chiến của Vũ Trọng Phụng để trả lời báo Ngày nay: “Dâm hay là không dâm”
Tội nghiệp biết bao! Đáng lẽ khi thấy tôi nói rằng: "Đối với trẻ con, báo nào, sách nào cũng có hại, và sáchĐoạn tuyệt, Lạnh lùng có thể có hại cho trẻ con hơn làLục xì", các ông nên cho là phải, nhất là khi chúng tôi phải đếm xỉa đến luân lý trong lúc nói chuyện nghệ thuật. Bằng có tức tối vì câu nói kia nữa, Tự Lực Văn Đoàn cũng nên dùng một chiến lược khác nguy hiểm cho tôi hơn. Than ôi! Mấy ông kia đã định hại tôi một cách hớ hênh làm sao! Khờ dại làm sao! Thù hằn báo Tương lai và tôi, mà lại hành động như vậy, thì thật là giúp ích cho chúng tôi vô kể! Độc giả của cả hai tờ báo, không phải là những người ngu cho chúng ta tự do muốn làm gì thì làm.
Vậy thì ông Nhất Chi Mai, hay là báo Ngày nay, công kích tôi những gì?
Không, tôi sẽ không như các ông, trong khi “tranh luận” với kẻ thù, chỉ kiếm hết cách nói ra ngoài đầu đề, mục đích là làm hại kẻ thù chứ không để bênh vực cho một lý thuyết, hay tìm kiếm lẽ phải.
(... Ông Nhất Chi Mai viết: “Nhưng mục đích bài này không phải để vạch cái hành tung đáng ngờ của nhà văn xã hội Vũ Trọng Phụng, mà chính là vạch cái bẩn thỉu nhơ nhớp, dơ dáy của văn ông ta”.)
Rồi ông Nhất Chi Mai kể ra một vài câu chuyện vặt trong Giông tố và Cơm thầy cơm cô của tôi. Đây tôi xin không cãi, vì công kích một điều vặt trong cả cuốn chuyện dài, hay là một hai chữ trong ba trăm trang tiểu thuyết như các ông vẫn cạo theo kiểu Hàn Đãi Đậu mà không kể đến cái luân lý của toàn chuyện, thì tôi cũng có thừa sức nêu ra nhiều điều “ô uế” trong những sách báo của Tự Lực Văn Đoàn từ xưa đến nay, thí dụ trong những tranh khôi hài, chuyện vui cười, Hà Nội ban đêm, Lạnh lùng… Tôi không cãi vội, chờ đến lúc văn phẩm của tôi in xong đã, để chờ được cãi lại, nếu các ông muốn như vậy có được không, hở các ông?
Từ đây trở đi, may sao tôi có thể đáp lại!
“Không ai cấm nhà văn Vũ Trọng Phụng dùng những chữ bẩn thỉu để tả những sự bẩn thỉu. Nhưng khi viết những câu văn mà mình cho là khoái trá, tưởng cũng nên nghĩ độc giả một chút.”
Thưa ông, tôi nghĩ đến độc giả của tôi lắm. Nếu không, thì tôi đã không sợ sức phản động của phái người cổ hủ hoặc bảo thủ để phóng bút viết như Richepi, Margueritte, Carco, Maryse Chon, Colette rồi, chứ còn gì! Và khi dùng một chữ bẩn thỉu, tôi chẳng thấy khoái trá như khi các ông tìm được một kiểu áo phụ nữ mới mẻ. Những lúc ấy, tôi lại thấy thương hại cái nhân loại ô uế bẩn thỉu nó bắt tôi phải viết như thế, và nó bắt văn phái các ông phải chạy xa sự thực bằng những danh từ điêu trá của văn chương. Các ông quen nhìn một cô gái nhảy là một phụ nữ tân thời, vui vẻ, trẻ trung hy sinh cho ái tình, hoặc cách mệnh lại gia đình. Riêng tôi, tôi chỉ thấy đó là một người đàn bà vô học chẳng có thi vị, lại hư hỏng, lại bất hiếu bất mục nữa, lại có nhiều vi trùng trong người. Tôi không biết gọi một gái đĩ là nàng - chữ ấy có thi vị lắm – hoặc tô điểm cho gái đĩ ấy những cái thi vị mà gái đĩ ấy không có, đến nỗi đọc trong chuyện, người ta chỉ thấy một gái đĩ làm gương cho thế gian noi theo! Thí dụ các ông có thể coi phong trào khiêu vũ là dấu hiệu tiến hoá mà các ông chủ trương. Riêng tôi, tôi chỉ thấy đó là một cách dâm bôn làm cho (...), một cái tai hoạ cho nước nhà mà giữa tình thế này, người biết nghĩ phải cho là điều đáng xỉ nhục. Tại sao ta lại không thành thực? Tại sao khi con gái mình, em gái mình hư hỏng, thì mình muốn tự tử, mà con gái hay em gái người khác bỏ chồng lẻn nhà theo trai mà lại gọi là giải phóng, là bình quyền, là chiến đấu cho hạnh phúc cá nhân?! Đó, thứa các ông, cái chỗ bất đồng ý kiến giữa chúng ta. Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết, tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi, muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời. Cứ một chỗ trái ngược nhau ấy, cũng đủ khiến chúng ta còn xung đột nhau nữa... Các ông muốn theo tiểu thuyết tuỳ thời, chỉ nói cái gì thiên hạ thích nghe, nhất là sự giả dối. Chúng tôi chỉ muốn nói cái gì đúng sự thực thành ra nguy hiểm, vì sự thực chỉ mất lòng. Vậy xin đừng phí lời khuyên tôi “nghĩ đến độc giả” vì tôi lo cho tôi hơn các ông nhiều, thưa các ông.
“Nhà văn Vũ Trọng Phụng lại hô lớn rằng: Nhân loại đã tiến hoá rồi! Tuồng như nhân loại đã tiến ở chỗ nói tục, dùng những danh từ bẩn thỉu, uế tạp và ở chỗ đầy dẫy những chuyện hiếp dâm, làm đĩ, ăn cướp, bịp bạc. Nếu nhân loại tiến đến chỗ đó thì cũng đáng buồn cho nhân loại. May sao cái nhân loại đó chỉ là cái nhân loại riêng của Vũ Trọng Phụng thôi. Đối với nhà văn xã hội kỳ quặc này, thì những người biết trọng lời nói, biết đắn đo dè dặt ngòi bút khi viết văn đều là những đồ ‘vô học thức’ có ‘tính e thẹn của quân bồi xăm’”.
Không, đó là ông Nhất Chi Mai và Ngày nay cố ý hiểu nhầm. Nhân loại tiến hoá về bẩn thỉu, uế tạp, hiếp dâm, làm đĩ, ăn cắp hay thế nào không rõ, nhưng tôi cho nhân loại tiến hoá ở chỗ trọng sự thực, nên những nhà văn dám nói rõ những vết thương ấy cho mọi người nghe, chứ sao? Theo ý ông thì nhân loại chỉ có nàng Ly Tao, “thơ mới”, những ông tham, đốc huyện, con quan, gái tân thời, thanh cao lương thiện cả mà thôi, hay sao? Ông Nhất Chi Mai có biết Margueritte đã phải than phiền nạn mãi dâm bằng cuốn sách Prostituées không? Các ông có biết các tờ nhật báo nước nhà thỉnh thoảng lại đăng tin hiếp dâm không? Các ông có biết những sự dâm bôn của các triều đình cũ và mới ở Pháp trong tập báo Crapouillot không? Các ông có biết nạn kê giao (pedérastie) mà bên Đức thì hàng triệu người theo, mà bên Pháp thì những ông mặt to tai nhớn như André Gide, Rostand, Verlaine, là những lãnh tụ, hay là không? Không, cái nhân loại ấy không thuộc riêng tôi đâu, mà điều ấy thì người nào có cái học vấn “sơ học” trở lên, tôi tưởng đều nên biết rõ. Phải là giả dối cực điểm hoặc vô học thức, thì mới tưởng nhân loại không có sự nhơ bẩn ô uế nào, tôi không bảo người không viết văn như tôi là vô học thức, có tính cả thẹn của bồi xăm; nhưng phàm kẻ nào giả dối nhắm mắt buộc tôi là vu oan, chối cãi rằng nhân loại không bẩn thỉu như đã nói ở trên, thì tôi bảo như vậy! Nhân loại tiến hoá rồi! Thật thế, vì nay mai Pháp đình ưng chuẩn dự án Seillier thì những điều các ông cho là dâm uế sẽ được người ta giảng dạy cho trẻ con! Đến lúc ấy, những cái “dâm uế” của tôi sẽ không làm cho các ông “phẫn uất”, và tôi tưởng các ông có học thức như thế, hẳn là phải biết trước khi mọi người mới là hợp lẽ.
“Kết luận, tôi phải nói cái cảm tưởng của tôi khi đọc văn Vũ Trọng Phụng.
Đọc xong một đoạn văn tôi thấy trong lòng phẫn uất, khó chịu, tức tối.
Không phải phẫn uất, khó chịu, vì cái vết thương xã hội tả trong câu văn, mà chính là vì cảm thấy một tư tưởng hắc ám, căm hờn, nhỏ nhen trong đó.
Đành rằng nhà văn có cái thiên chức nêu những cái thống khổ của nhân loại, vạch cái xấu xa của loài người, nhưng bao giờ cũng cần phải có một ý nghĩ cao thượng, một tư tưởng vị tha, một lòng tín ngưỡng ở sự tiến hoá, mong cho nhân loại ra khỏi nơi u ám và một ngày một hay hơn, một sung sướng hơn lên.
Đọc văn Vũ Trọng Phụng, thực không bao giờ tôi thấy một tia hy vọng, một tư tưởng lạc quan. Đọc xong ta phải tưởng tượng nhân gian là một nơi địa ngục và chung quanh mình toàn những kẻ giết người, làm đĩ, ăn tục, nói càn, một thế giới khốn nạn vô cùng.
Phải chăng đó là tấm gương phản chiến tính tình, lý tưởng của nhà văn, một nhà văn nhìn thế gian qua cặp kính đen, có một bộ óc cũng đen và một nguồn văn càng đen nữa? ”
Ông Nhất Chi Mai chỗi cãi rằng cái “phẫn uất, khó chịu, tức tối” ấy không phải vì thấy xã hội là xấu xa nhưng vì tư tưởng của tôi hắc ám, nhỏ nhen, căm hờn... Hắc ám có! Vì tôi vốn là người bi quan. Căm hờn cũng có, vì tôi cho rằng cái xã hội nước nhà mà lại không đáng căm hờn, mà lại cứ “vui vẻ, trẻ trung, trưởng giả, ăn mặc tân thời, khiêu vũ, v.v...” như các ông chủ trương, thì, một là không muốn cải cách gì xã hội, hai là ích kỷ một cách đáng xỉ nhục.
Còn bảo nhỏ nhen thì là thế nào?
Tả thực cái xã hội khốn nạn, công kích cái xa hoa dâm đãng của bọn người có nhiều tiền, kêu ca những sự thống khổ của dân nghèo bị bóc lột, bị áp chế, bị cưỡng bức, muốn cho xã hội công bình hơn nữa, đừng có những chuyện ô uế, dâm đãng là là nhỏ nhen, thì há dễ Zola, Hugo, Malraux, Dostoiewsky, Maxime Gorki, lại không cũng là nhỏ nhen?
Nói như ông Nhất Chi Mai, thì tôi há lại không có thể nhìn vào tờ Phong hoá, tờ Ngày nay mà kêu rằng xã hội riêng của Tự Lực Văn Đoàn là “một nơi địa ngục", chung quanh mình toàn là: Lý Toét, Xã Xệ, Bang Bạnh, Hà Nội ban đêm, ăn cướp, ăn cắp, ăn trộm, đàn bà nghiện hút, buôn người, đồng bóng, sư sãi hoang dâm, và, mới đây, Hà Nội lầm than nghĩa là các cô gái nhảy? Nhưng thôi, đến đây nếu ta không muốn cả cười thì ta nên im lặng...
Ông Nhất Chi Mai muốn biết tôi có cặp kính đen, bộ óc đen, và một nguồn văn cũng đen?
Nếu các ông không muốn sờ lên gáy thì thôi, bao nhiêu chuyện gì thanh tao, tao nhã, cao thượng của loài người, xin các ông cứ cố mà hương hoa khấn khứa, tôi xin để cái phần ấy cho các ông.
Riêng tôi, xã hội này tôi chỉ thấy là khốn nạn: quan tham, lại nhũng, đàn bà hư hỏng, đàn ông dâm bôn, một tụi văn sĩ đầu cơ xảo quyệt, mà cái xa hoa chơi bời của bọn giầu thì thật là những câu chửi rủa vào xã hội dân quê, thợ thuyền lầm than bị bóc lột. Lạc quan được, cho đời là vui, là không cần cải cách, cho cái xã hội chó đểu này là hay ho tốt đẹp, rồi ngồi mà đánh phấn bôi môi hình quả tim để đi đua ngựa, chợ phiên, khiêu vũ, theo ý tôi, thế là giả dối, là tự mình lừa mình và di hoạ cho đời, nếu không là vô liêm xỉ một cách thành thực.
Tôi tưởng tôi đã đủ đáp lại sự khinh bỉ tôi của các ông.
Vũ Trọng Phụng (Báo Tương lai, 25-03-1937)
(Hình bút tích của Vũ Trọng Phụng - bản thảo Người tù được tha)
Trần Đức Thảo
Nỗ lực phát triển tự do dân chủ
Trước hết, chúng ta phải nhận định rõ ý nghĩa và nội dung của phong trào tự do dân chủ đương phát triển trong nhân dân. Căn bản nó là phong trào quốc tế, do Đại hội Đảng XX của Đảng Cộng sản Liên Xô phát động, và đương lan tràn rầm rộ trên khắp thế giới. Nó xuất phát từ những thắng lợi lớn lao của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và trên thế giới, do những thắng lợi ấy mà phương pháp lãnh đạo hẹp hòi, sùng bái cá nhân theo kiểu Stalin đã trở thành một cản trở nghiêm trọng cho sự phát triển của xã hội Liên Xô và của phong trào hoà bình thế giới. Đánh đổ cái cản trở ấy là một nhiệm vụ cấp bách để tiến lên chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô, củng cố và mở rộng hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Nhân dân Việt Nam với sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu bè phái, sùng bái cá nhân, chính là thực hiện đường lối cách mạng của Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô, do Đảng Lao động Việt Nam truyền đạt.
Xét đến tình hình trong nước phong trào tự do dân chủ cũng có ý nghĩa trọng đại. Sau khi chúng ta đã đánh bại đế quốc và hoàn thành Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc, chính bệnh quan liêu, bè phái, sùng bái cá nhân là những di tích của chế độ cũ trong tổ chức mới. Đấu tranh chống những bệnh ấy là nhiệm vụ của nhân dân và đường lối của Đảng, một trọng tâm công tác để đẩy mạnh công cuộc kiến thiết kinh tế và văn hoá, nhanh chóng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tất nhiên, trong phong trào có thể có những sai lầm cá nhân, những lời lẽ lệch lạc với sự lãnh đạo của Đảng, những khuyết điểm ấy nhất định được sửa chữa, nhưng đấy chỉ là chi tiết. xét về căn bản và toàn bộ, phong trào hiện tại chống quan liêu, bè phái, sùng bái cá nhân là một phong trào cách mạng của toàn dân, do giai cấp và Đảng công nhân lãnh đạo: nó giải phóng sức sản xuất, chỉnh đốn tổ chức, đẩy mạnh sự tiến triển của xã hội Việt Nam lên chủ nghĩa xã hội, gắn liền nhân dân Việt Nam với hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới.
Đã làm một nhiệm vụ cách mạng, sẽ có địch lợi dụng xuyên tạc. Không có gì địch đã lợi dụng xuyên tạc bằng Cải cách Ruộng đất. Không có công tác nào đã phạm phải sai lầm đau xót như công tác ấy. Ngay từ đầu chúng ta đã biết rằng chúng ta sẽ có sai lầm, rằng địch sẽ lợi dụng xuyện tạc, nhưng chúng ta vẫn quyết tâm tiến hành, vì đấy là nhiệm vụ cách mạng. Trong phong trào tự do dân chủ bây giờ không thể nào có sai lầm nghiêm trọng đến thế, vì nó chỉ tiến hành bằng lời nói, bằng giấy viết, nó không phạm đến cơ thể. Mà nếu địch có thể tìm cách lợi dụng một vài chi tiết, thì về căn bản nó sẽ bị một gánh đòn rất nặng, có thể là quyết định, vì căn bản tuyên truyền của địch là kêu rằng chúng ta không có dân chủ, mà chính chúng ta lại chứng minh bằng sự việc rằng chúng ta có dân chủ rõ ràng. Không phải vì một vài vấn đề vụn vặt mà chúng ta lại bỏ cái căn bản, và không vì thấy cây mà không trông thấy rừng.
Có anh em lo rằng với tự do dân chủ được phát triển, giai cấp tư sản sẽ “ngóc đầu” lên. Chính như thế là đánh lạc vấn đề. Từ ngày hoà bình trở lại, chúng ta mở rộng phạm vi kinh doanh tư sản, chúng ta hô hào họ đầu tư; như thế họ cũng đã được thoả mãn một phần khá, mà họ cũng không có đủ sức để làm gì khác. Những người có vấn đề phê bình là những người lao động trí óc và lao động chân tay, phục vụ nhân dân và trung thành với Đảng, nhưng chưa được điều kiện để phát huy khả năng và phục vụ có kết quả, thậm chí còn bị kìm hãm, chà đạp bởi những phần tử quan liêu, bè phái, sùng bái cá nhân. Cái tự do mà họ muốn phát triển nhất định không phải là cái tự do tư sản của xã hội cũ, tự do của một thiểu số đi bóc lột đa số. Cái tự do mà họ muốn phát triển là tự do của toàn dân phê bình lãnh đạo, vì lãnh đạo chính là lãnh đạo của mình, mà có phê bình thì mới xây dựng được một tổ chức hợp lý, bảo đảm những điều kiện cần thiết để mọi công tác được kết quả tốt, để mỗi công dân được góp phần vào nhiệm vụ chung. Cái tự do ấy là quyền của người công dân, nó được hoàn toàn công nhận và bảo đảm trong chế độ ta. Đảng và Chính phủ luôn luôn kêu gọi nhân dân xây dựng lãnh đạo. Nhưng vì chúng ta hay rụt rè, thậm chí còn sao nhãng, thiếu tin tưởng, nên công tác phê bình chưa được thường xuyên đầy đủ. Chúng ta còn thiếu tác phong thảo luận rộng rãi, đặt mọi vấn đề trước quần chúng. Đấy là một di tích của lề lối làm việc cũ, một biểu hiện của tư tưởng xa quần chúng, xa nhân dân. Chúng ta phải nỗ lực mở rộng dân chủ, phát triển phê bình trong nhân dân. Đảng đã chỉ đường vạch lối, nhưng không thể làm thay: Tự do không phải là cái gì có thể ban ơn.
Trong nhiệm vụ thực hiện phương châm của Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô, đặng hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng Cộng sản Việt Nam, hưởng ứng phong trào phát triển tự do dân chủ trong những nước dân chủ nhân dân anh em, người trí thức Việt Nam có phần trách nhiệm quan trọng. Người trí thức hoạt động văn hoá, cần tự do như khí trời để thở. Có tự do mới đẩy mạnh được sáng tác văn nghệ nghiên cứu khoa học, cải tiến kỹ thuật. Phát triển tự do là nhu cầu thiết thân đồng thời cũng là nhiệm vụ số 1 của người trí thức cũng như của toàn dân.
Đấy phải phân biệt nội dung và hình thức tự do. Về phần nội dung thì chế độ ta căn bản và thực sự là tự do. Chúng ta đã đánh đổ đế quốc và phong kiến ở miền Bắc, mà dù có còn phương thức bóc lột tư sản, thì với chính quyền nhân dân, với sự lãnh đạo của giai cấp và đảng công nhân, cái căn bản đã có và bảo đảm cho tương lai. Nhất định chúng ta sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, thực hiện tự do hoàn toàn.
Nhưng về hình thức thì còn nhiều thiếu sót, mà đấy là vấn đề nghiêm trọng, vì chính hình thức tự do bảo đảm sự đóng góp đầy đủ của mỗi công dân vào nhiệm vụ chung. Có hình thức tự do thì mới thực hiện được quy tắc lãnh đạo tập thể, mới giải phóng đầy đủ lực lượng sáng tạo của quần chúng, phát huy sáng kiến ở cơ sở kinh tế và văn hoá. Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô đã bóc trần những kết quả tai hại của tác phong lãnh đạo vi phạm hình thức tự do. Tuy cái tệ sùng bái cá nhân không thể nào làm mất cái nội dung dân chủ thực sự và tính chất ưu việt của xã hội Liên Xô, trong ấy không còn chế độ người bóc lột người, nhưng vì trong một thời gian hình thức tự do không được đảm bảo, sự phát triển của xã hội Liên Xô đã bị cản trở nghiêm trọng. Riêng trong công tác văn hoá, một số bộ phận nghiên cứu sáng tác như bộ phận khoa học xã hội, theo báo cáo của đồng chí Mi-cai-an, đã bị hầu như tê liệt. Hình thức tự do không phải “chỉ là hình thức”! Nó ảnh hưởng sâu sắc đến thực tế xã hội, dù không có thay đổi cái nội dung căn bản.
Ở nước ta, Cải cách Ruộng đất đã hoàn thành ở miền Bắc, bây giờ là lúc chuyển lên chủ nghĩa xã hội: Không có con đường nào khác, mà không tiến thì lùi. Điều kiện chủ yếu để tiến là xây dựng nhanh chóng cơ sở vật chất và văn hoá cần thiết cho phương thức sản xuất tập thể. Từ hai năm hoà bình đã được lập lại, công cuộc kiến thiết bị cản trở nghiêm trọng, hầu như hết cả các ngành, bởi những phần tử quan liêu, bè phái, sùng bái cá nhân. Phát triển hình thức tự do (tự do báo chí, ngôn luận, hội họp, hiệp đoàn v.v...) là một công tác trọng tâm để giải phóng lực lượng sáng tạo của nhân dân, khai thác và làm nổi bật cái nội dung dân chủ phong phú mà chúng ta đã đạt được. Trong cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà bằng phương pháp hoà bình, đấy cũng là một yếu tố quan trọng để mở rộng mặt trận tổ quốc, tranh thủ sự đồng tình của những tầng lớp rộng rãi ở miền Nam và trên thế giới.
Hình thức tự do là tự do cá nhân. Dưói chế độ cũ, căn bản nó là mơ mộng duy tâm, làm khí cụ tinh thần cho giai cấp tư sản đi bóc lột nhân công. Nhưng trong xã hội ta nó đã biến chất và trở thành giá trị chân chính. Cá nhân phục tùng tập thể, nhưng tập thể cũng phải có cá nhân xây dựng và hình thức tự do trong phạm vi pháp lý nhân dân là điều kiện để mỗi cá nhân góp phần thực sự xây dựng tập thể. Xét đến tình hình thế giới mới đây, lý tưởng tự do cá nhân lại là lý tưởng của những ngày tiến tới, lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản bây giờ đương bắt đầu trở thành một thực tế lịch sử ở Liên Xô. Phát triển tự do cá nhân hoàn toàn, đấy sẽ là mục tiêu càng ngày càng cụ thể với thực tiễn kiến thiết chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô, trong ấy sẽ không còn phân biệt giai cấp, nhà nước sẽ tự tiêu, mỗi cá nhân sẽ tự do xây dựng sở trường của mình, làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu. Chủ nghĩa xã hội hoàn thành ở Liên Xô đã giải phóng con người trong tập thể sản xuất. Trong xã hội cộng sản mỗi người sẽ được giải phóng với cá tính bản thân.
Bước tiến của xã hội ta chưa đi đến đấy nhưng cách mạng ta là một bộ phận trong phong trào thế giới và tính chất chung của phong trào thế giới là do bộ phận cao nhất của nó quy định. Tư tưởng cách mạng, dù có ở một nước lạc hậu vẫn phải là tư tưởng tiến bộ nhất trên thế giới. Chúng ta đã làm cách mạng tư sản dân chủ với tư tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân, tư tưởng tiến bộ nhất của thời đại, nhưng mang nặng những bệnh của giai đoạn Stalin: quan liêu, giáo điều, bè phái, sùng bái cá nhân. Theo đòi hỏi của sự phát triển của sức sản xuất và công trình xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô, Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô đã lên án nghiêm khắc cái tệ sùng bái cá nhân, đặt chủ trương đường lối giải phóng tư tưởng bảo đảm pháp lý xã hội chủ nghĩa, triệt để dân chủ hoá tổ chức. Những nghị quyết lịch sử của Đại hội đã ảnh hưởng sâu sắc đến các nước dân chủ nhân dân anh em và phong trào công nhân và nhân dân thế giới. Nước ta không thể nào đứng riêng: chúng ta sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin đã gột rửa những nết xấu của đời Stalin, với nội dung chân chính xây dựng trên kinh nghiệm kiến thiết chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới, trong ấy dưới hình thức này hay hình thức khác, nhiệm vụ của vô sản chuyên chính là phát triển tự do cá nhân.
Bác sĩ Đặng Văn Ngữ trả lời về mở rộng tự do và dân chủ
Câu hỏi
1. Theo ý ông lúc này giới trí thức nói chung và giới văn nghệ nói riêng cần phải làm gì để góp phần thực hiện mở rộng tự do dân chủ?
2. Theo ý ông và căn cứ vào nhu cầu phát triển của ngành y tế, có những vấn đề gì cần đem thảo luận rộng rãi?
Trả lời
1. Một dân tộc càng bị áp bức thì càng thiết tha ham muốn tự do dân chủ. Dân tộc Việt Nam hàng mấy trăm năm nay sống dưới áp bức phong kiến và đế quốc, dĩ nhiên là một dân tộc rất thiết tha đối với tự do dân chủ. Vì tự do dân chủ mà trong lịch sử Việt Nam đã có bao nhiêu cuộc khởi nghĩa để lật đổ những chính quyền áp bức bất công, vì tự do dân chủ mà toàn thể nhân dân ta đã hy sinh anh dũng trong 8, 9 năm để đánh lui đế quốc và phong kiến trên một nửa đất nước chúng ta. Vì tự do dân chủ mà nhân dân ta còn quyết tâm đánh lui mọi âm mưu của đế quốc Mỹ và tay sai của chúng để chế độ dân chủ lan khắp toàn lãnh thổ ta.
Đảng Lao động Việt Nam trước đây là Đảng Cộng sản Đông Dương, Chính phủ và Hồ Chủ tịch chung đúc ý chí quật cường của dân tộc đã lãnh đạo toàn dân đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật xây dựng chế độ dân chủ nhân dân ở nước ta.
Chính phủ ta thiết tha xây dựng tự do dân chủ, việc ấy không thể ai chối cãi được. Nhân dân ta thiết tha yêu chuộng tự do dân chủ, lịch sử cũng chứng minh điều ấy. Tuy vậy gần đây kiểm điểm sự thi hành các chính sách của Chính phủ, ta thấy có nhiều thiếu sót nghiêm trọng về tự do và dân chủ. Thoạt mới nghe thì có vẻ như là việc kỳ lạ nhưng nghĩ lại nó là một hiện tượng dĩ nhiên. Chính là vì Đảng và Chính phủ ta quyết tâm xây dựng một chế độ càng ngày càng tự do và dân chủ cho nên đang tìm mọi khuyết điểm cũ để khắc phục cho bằng được.
Dưới một chế độ độc tài không ai dám chỉ trích Chính phủ thì còn đâu mà thấy khuyết điểm về tự do và dân chủ?
Dưới chế độ dân chủ, nhân dân ta tin tưởng tuyệt đối với chế độ nên càng mạnh dạn phê bình nhận xét. Nếu nhân dân còn nghi ngờ Chính phủ, còn sợ Chính phủ trả thù những người nêu khuyết điểm của Chính phủ ra thì dù cậy mồm ra cũng không ai dám kể khuyết điểm của Chính phủ.
Chúng ta không nên quyên rằng Đảng và Chính phủ cũng ở trong nhân dân mà ra. Trình độ nhân dân đến đâu thì trình độ Đảng và Chính phủ đến đó.
Mỗi người trong nhân dân có thể có sai lầm thì mỗi người trong Đảng hay Chính phủ đều có thể có sai lầm được. Vậy Chính phủ và Đảng kiểm điểm lại công tác trong mấy năm qua có sai lầm, ta không lấy gì làm lạ cả. Nguyên nhân những sai lầm đó ở đâu? Tôi thiết tưởng chính vì chúng ta chưa biết sử dụng một cách thích đáng quyền tự do dân chủ của chúng ta. Là những người rất thiết tha với tự do dân chủ, chúng ta đã hy sinh rất nhiều để được tự do dân chủ nhưng đến khi có tự do dân chủ thì ta lại không biết sử dụng sự tự do dân chủ ấy. Điều này cũng không có gì lạ cả. Hàng ngàn năm nay nhân dân Việt Nam đã biết tự do dân chủ là gì đâu! Mà tự do dân chủ có phải là những vật dễ sử dụng đâu.
Nhân dân Việt Nam đã dũng cảm đương đầu với giai cấp thống trị phản động và bóc lột, nhưng đối với chính quyền nhân dân của mình thì lại vô cùng nhu nhược, thiếu đấu tranh và đặc biệt là không biết dùng quyền tự do dân chủ của mình để đấu tranh, vì thế mà khuyết điểm dồn lại cho đến ngày nay ta nhận thấy trầm trọng.
Trong sự đấu tranh chung đã đưa đến sai lầm nghiêm trọng, người trí thức phải nhận có phần trách nhiệm của mình.
Trong 8, 9 năm kháng chiến anh dũng và 2 năm xây dựng hoà bình thắng lợi, người trí thức hãnh diện có góp phần quan trọng thì nay thấy có khuyết điểm, trí thức cũng sẽ dũng cảm nhận phần khuyết điểm của mình.
Nếu trong nhiệm vụ xây dựng quân đội, nhiệm vụ chính là của bộ đội, trong việc xây dựng kinh tế, nhiệm vụ chính là của công nhân và nông dân thì trong việc xây dựng tư tưởng tự do và dân chủ, nhiệm vụ chính phải là của trí thức. Trí thức ở một cương vị thuận lợi và có đủ nhận thức để nhận thấy lãnh đạo có sai lầm, và thực tế là trí thức của ta đã nhận thấy từ lâu một số sai lầm của lãnh đạo. Nhưng trí thức của ta đã thiếu tự do tư tưởng, thiếu dũng cảm nên không dám phê bình xây dựng. Một số đông trong hàng ngũ trí thức chúng ta không phê bình vì sợ bị hiểu nhầm, sợ bị nghi là lập trường không vững vàng. Một số khác có phê bình một vài lần những chưa thấy sửa chữa thì sinh ra tiêu cực, không tiếp tục phê bình nữa. Cả hai thái độ đó đều sai vì nó là những hiện tượng thiếu tin tưởng vào tính chất dân chủ của chế độ, thiếu ý thức chủ nhân ông đất nước.
Để giúp các cấp lãnh đạo sửa chữa những khuyết điểm cũ và đề phòng khuyết điểm mới, tôi thiết tưởng Ban Thường trực của Quốc hội có thể tổ chức một cơ quan thu thập tất cả những ý kiến phê bình của nhân dân, từ phê bình chính sách to lớn như chính sách Cải cách Ruộng đất, chính sách thuế khoá cho đến những phê bình nhỏ như thái độ của một chị bán hàng mậu dịch hay của một anh bán vé văn công. Cơ quan này còn có nhiệm vụ đến các địa phương để thu thập ý kiến đầy đủ của nhân dân. Cơ quan này chỉ có thể làm đầy đủ nhiệm vụ khi nhân dân có đầy đủ ý thức về tự do dân chủ.
Nhận rõ phần khuyết điểm của mình trong khuyết điểm chung đã mắc phải, trí thức sẽ dũng cảm phê bình và đảm nhận nhiệm vụ giáo dục nhân dân, không ai có thể phủ nhận được vai trò của văn nghệ.
Trong kháng chiến, chúng ta đã được học tập nhiều về lập trường và tư tưởng; trong hai năm hoà bình ta lại nặng về học tập, về kế hoạch nhà nước và chính sách kinh tế tài chính. Tôi thiết tưởng ta nên tổ chức những buổi học tập và thảo luận thế nào là tự do dân chủ, thế nào là chế độ dân chủ nhân dân v.v...
Để trả lời một cách tóm tắt câu hỏi này, tôi thấy: trong lúc này Chính phủ quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, nhân dân quyết tâm phê bình xây dựng Chính phủ, đó là hai điều tốt căn bản. Để sự phê bình có kết quả hơn, cần có một tổ chức của Chính phủ để thu thập ý kiến của nhân dân và cần phải giáo dục nhân dân có tự do tưởng và hiểu rõ chế độ của ta. Dĩ nhiên trong sự giáo dục này phải dùng rất nhiều hình thức và văn nghệ là một hình thức có hiệu lực rất lớn.
2. Để phát triển bất kỳ một ngành nào, vấn đề cần phải đưa ra thảo luận là vấn đề tự do dân chủ.
Điều này đã phát biểu ở câu hỏi thứ nhất.
1-10-1956
Trần Công và Trần Thịnh
Đã tiến thêm được một bước, cần tiến thêm bước nữa
Từ đợt học tập tháng tám, giới văn nghệ vẫn chờ đợi giải quyết những vấn đề đã được nêu ra sôi nổi trong các tổ và trong buổi tổng kết.
Cụ thể ra, anh chị em công tác văn nghệ đòi thực hiện trước Đại hội Văn nghệ Toàn quốc những việc này.
1. Xét lại vụ Giai phẩm mùa Xuân
2. Xét lại vụ Giải thưởng Văn học 1954-1955
3. Mở rộng tự do và dân chủ, công bố và áp dụng ngay những nguyên tắc cơ bản của đường lối “trăm hoa đua nở”
4. Chấp nhận và thực hiện bốn đề nghị kết thúc bản tham luận của Tổ văn II (do Nguyễn Hữu Đang đọc) hôm tổng kết (26-08-56) đã được tuyệt đại đa số tán thành, gồm có:
- Anh chị em được học tập nữa, hướng vào yêu cầu của Đại hội và sửa đổi đường lối và chấn chỉnh tổ chức.
- Anh chị em được gặp Trung ương Đảng với mục đích trực tiếp phản ánh tình hình phong trào và hiểu rõ chủ trương của Đảng để căn cứ vào đó mà tiến hành kiểm điểm những việc cũ và chuẩn bị những việc mới.
- Bổ sung vào Thường trực Ban trù bị Đại hội một số đại biểu do anh chị em bầu ra. (Số đại biểu này phải đông hơn số người được chỉ định trước), đồng thời nếu trong Ban Trù bị có những người bị anh em chỉ trích nhiều thì cũng phải rút lui.
- Trong thời gian chuẩn bị Đại hội, Thường vụ Hội cùng với Thường trực Ban trù bị (đã được bổ sung) tích cực giúp đỡ cho việc anh chị em ra thêm báo được dễ dàng và Nhà Xuất bản Văn nghệ dành ưu tiên cho những tài liệu của anh chị em viết bàn về lý luận hay tổ chức văn nghệ.
Sau một tháng trời im lặng một cách nặng nề, gần đây chúng ta đã thấy Thường vụ Hội làm bốn việc:
- Anh Hoài Thanh đã tự phê bình bằng một cuộc nói chuyện và một bài báo về những sai lầm nghiêm trọng trong vụ Giai phẩm mùa Xuân.
- Anh Nguyễn Tuân đã viết một bài báo nhận những thiếu sót trong việc chấm giải văn học 1954-1955 mà anh phụ trách.
- Anh Nguyễn Đình Thi đã viết một bài báo nêu những khuyết điểm trong sự lãnh đạo văn nghệ nói chung.
- Thường vụ Hội ra một thông cáo công nhận những sự việc chính đã nêu ra trong ba bài báo nói trên. Ngoài ra, bản thông báo nói rõ: “Ban Thường vụ còn tiếp tục kiểm điểm và tích cực sửa chữa”, “Ban Thường vụ đã đề đạt những ý kiến và đề nghị của anh chị em lên Chính phủ” và “Ban Thường vụ đã đề nghị Ban Trù bị Đại hội bổ sung thêm một số đại biểu”.
Bốn việc này đã giải quyết được gì?
Công bằng mà nói, những sự kiện đó đã là một cố gắng làm dịu đôi chút tình hình sóng gió hiện nay của ngành văn nghệ và làm cho những quan điểm nhiều chỗ đối lập giữa bộ phận lãnh đạo và anh em nhích lại gần nhau hơn.
Chúng tôi thành thật hoan nghênh kết quả đó và mong rằng những cố gắng như thế sẽ được tiếp tục và đẩy mạnh để phong trào chóng thoát ra khỏi cơn khủng hoảng.
Nhưng một mặt khác, phân tích kỹ bốn sự việc trên, ta thấy một số ý định mới tương đối tiến bộ của Thường vụ Hội vẫn còn bị nhiều yếu tố bảo thủ kìm hãm lại.
Anh Hoài Thanh tự phê bình chưa thành khẩn, nghiêm chỉnh; ý kiến của hai bạn Hữu Tâm và Thanh Bình trình bày trong số báo này sẽ vạch rõ.
Anh Nguyễn Tuân nhận xét công việc chấm giải văn học 1954-1955 một cách đứng đắn hơn, gây cho anh chị em văn nghệ một ấn tượng tốt về thái độ của một người có trách nhiệm với phong trào, tôn trọng dư luận quần chúng và thật tâm muốn đi đến giải quyết hợp lý. Tuy vậy anh cũng chưa nói được toàn bộ sự thật.
Anh Nguyễn Đình Thi kiểm điểm “một vài sai lầm khuyết điểm trong sự lãnh đạo văn nghệ”, nhận “sự lãnh đạo của Hội và các đồng chí chỉ đạo ở Hội có nhiều khuyết điểm” và nêu ra ba cái dở cần chú ý là:
- Non kém trầm trọng về lý luận;
- Thủ công nghiệp, du kích, tuỳ tiện;
- Hẹp hòi, độc đoán cá nhân, thiếu dân chủ và tập thể.
Nhưng anh Thi lại chối cãi tinh thần bè phái, cho rằng chỉ có nể nang, xuê xoa và nếu có bè phái thật thì chỉ là cá biệt mà thôi. Hơn nữa, để cắt nghĩa tình trạng bị kìm hãm và những tệ hại hiện nay trong ngành văn nghệ, anh đổ gần hết cho khách quan: nào là “chúng ta vướng mắc với bản thân chúng ta khá nhiều”, nào là “những bệnh ấu trĩ của một nền văn nghệ vừa mới thoát thai từ một chế độ thực dân và phong kiến”... Còn phần chủ quan? Anh Thi đắn đo, dè dặt nói:
“Có thể làtrong lãnh đạo có những sai lầm, khuyết điểm kéo dài”.
Rồi anh xoá nhoà luôn cái điều mà anh cho là chưa chắc (!) đó bằng cách gài nó vào một hiện tượng quá phổ biến ở nước ta đến nỗi không còn biết nên coi là lý do chủ quan hay khách quan:
“Những sai lầm đó có nhiều quan hệ đến tư tưởng sùng bái cá nhân”.
Chúng ta lấy làm lạ sao anh Thi lại nói như một người ở ngoài bộ phận lãnh đạo, như chính mình không chịu trách nhiệm gì về những sai lầm khuyết điểm kia. Và chúng ta lấy làm tiếc rằng bài kiểm điểm của anh nêu ra nhiều vấn đề, đều đáng chú ý cả, nhưng không làm nổi bật lên được cái then chốt. Với một thái độ mạnh dạn hơn, thẳng thắn hơn, anh sẽ có thể thống nhất nhận định với anh em để cùng tìm một giải pháp.
Còn bản thông cáo của Thường vụ Hội, nhờ có tính chất tập thể nên mặc dầu vẫn còn nói chưa bằng lòng đối với vài trường hợp chỉ trích mạnh (gọi là đả kích), cũng đã tỏ rõ một thái độ thật thà tiếp thu phê bình và sẵn sàng hợp tác với anh chị em để sửa chữa. Song chúng ta không thể nào đồng ý với bản thông cáo ở chỗ nó, chỉ nêu nguyên nhân là phương pháp sai, tác phong xấu mà bỏ quên hẳn tư tưởng và động cơ.
Tất cả những điều chưa thoả đáng nói trên biểu hiện sự rụt rè của lãnh đạo, một sự rụt rè rất không hợp thời. Quần chúng mong đợi một thay đổi lớn chứ không muốn chứng kiến một cuộc vá víu.
Và trên tình thân đó, anh chị em văn nghệ rất phấn khởi đón tin Trung ương Đảng sẽ gặp đoàn đại biểu của anh chị em trong một cuộc toạ đàm sắp tới.
Để gần nhau, chúng ta đã tiến được một bước đầu. Chúng ta sẽ cố gắng tiến thêm bước nữa.
Ý kiến bạn đọc: Về mấy bài phê bình báo Nhân văn
Trần Bái, cán bộ, đường Nguyễn Thái Học, Hà Nội:
Tôi vẫn mến báo Nhân dân và báo Tiền phong, vì cả hai thường ngày tỏ ra đứng đắn. Nhưng tôi rất tiếc ông Nguyễn Chương ở báo Nhân dân chưa gì đã vội vàng buộc cho tập Giai phẩm và báo Nhân văn cái tội cố làm cho người ta tưởng lầm toàn bộ chế độ miền Bắc là độc tài độc đoán, chà đạp con người v.v..., và ông Trần Việt ở báo Tiền phong cũng vội vàng chụp cho ông Hoàng Huế cái mũ cố ý làm cho người đọc hoài nghi sự lãnh đạo giáo dục của Đoàn Thanh niên Cộng sản Lê-nin Liên Xô, đối với thanh niên ta v.v...
Tuy tôi cũng có vài điểm chưa đồng ý với Giai phẩm và Nhân văn nhưng tôi thấy qui tội như thế thì thật quá đáng, và không phải thái độ tranh luận chín chắn. Báo của Đảng và của Đoàn, nếu đã rút kinh nghiệm vụ Trần Dần mà ông Hoài Thanh vừa tự kiểm điểm, thì cần chú ý thận trọng hơn nữa về những cái mũ “sinh mệnh chính trị” này.
Phùng Báo Kim, sinh viên Văn khoa
“Có một luồng gió mới thổi vào nền văn nghệ chúng ta”, đó là cảm tưởng đầu tiên của tôi khi đọc Nhân văn.
Trong kháng chiến vì thù trong giặc ngoài, chúng ta hy sinh một vài quyền tự do để có quyền tự do rộng lớn ngày mai. Nay hoà bình lặp lại con người của chúng ta cần phải sống cho ra con người nghĩa là nó có lý trí nhưng đồng thời cũng có tình cảm tế nhị.
Chúng ta đã lớn lên, toàn thể nhân dân chúng ta đã lớn lên. Con mắt của chúng ta đã nhìn rõ được hai chiều, tim chúng ta cần nghe nhiều âm thanh, tim chúng ta cần có những phút sôi nổi. Văn nghệ có nhiệm vụ làm chúng ta thoả mãn những cái đó. Đọc Nhân văn chúng tôi cũng tìm thấy những cái đó tuy mới là bước đầu.
Chúng tôi mong luồng gió mới Nhân văn thổi mạnh hơn để góp phần vào công cuộc xây dựng một nền văn nghệ thực sự. Và nhiệm vụ của chúng ta là giúp cho luồng gió ấy thổi mỗi ngày một mạnh, đừng ngăn trở nó.
Mục "Hộp thư", thông báo nhận được bài vở của các bạn:
Thơ: Vũ Huy Cương, Lương Huy, Phạm Trung Anh, Hà Mỹ Kiều, Hạnh Tùng, Nguyễn Dậu, Lê Huy Năng, Lê Cẩm Hồ, Hữu Tâm, Hoàng Thao, Hồng Lực, Hữu Loan, Hoàng Huế, Lê Đại Thanh, Nguyễn Mạnh Dũng
Tuỳ bút: Lê Báo, Hồng Nguyên, Văn Tuyển
Không... cười: Nguyễn Đình Nam, Huy Chi, Kim Thép, Lê Việt, Nguyễn Liêm, Phan Vĩnh Bá, Nguyễn Thành Thân.
Phê bình, tranh luận: Đỗ Chí Tôn, Nguyễn Huy Chi, Vũ Nắng, Bình Minh, Nguyễn Châu Viên, Hoàng Tố Nguyên, Mai Thi và Đình Chú, Bạch Phan, Phượng Kỳ.
Cảm ơn các bạn. Chúng tôi đang đọc và sẽ trả lời riêng từng bạn sau.
N.V
Khung quảng cáo cho báo Trăm hoa số 1, phát hành 7 giờ sáng ngày 18-10-1956
Chủ nhiệm kiêm chủ bút: Nguyễn Bính
Toà báo: 17, Lê Văn Hưu, Hà Nội
Số 1 có những bài:
- Trăm hoa - Hoa lại nở
- Nguyễn Bính - Phải xét lại toàn bộ giải thưởng văn học toàn quốc 54-55
- Vũ Trọng Phụng - Cẩm phạt (trích)
- Hữu Loan - Mầu tím hoa sim (thơ)
- Sê-cốp – Cái hắt hơi (truyện ngắn)
- Sơn Nhân - Nhiều thứ Hoa… Kỳ
- Người Hà Nội - Đề nghị bỏ hẳn lệ khai báo tạm trú
Phê bình bài tự phê bình của ông Hoài Thanh
Sau khi ông Hoài Thanh tự phê bình trong cuộc nói chuyện với sinh viên và trên báo Văn nghệ, chúng tôi nhận được rất nhiều bài gửi đến phản đối ông. Chúng tôi chỉ đăng hai bài tiêu biểu này thôi. Mặc dầu trong vụ Giai phẩm mùa Xuân ông Tố Hữu là người chịu trách nhiệm chính, ông Hoài Thanh cũng chưa nhận đúng mức lỗi mình ở cương vị thừa hành.
Thái độ chưa đúng của ông Hoài Thanh đồng thời cũng là thái độ chưa đúng của Thường vụ Hội Văn Nghệ.
Nhân văn
Hữu Tâm
Không thể giải quyết kiểu ấy được
Việc quần chúng nhân dân được rất tự do phát biểu ý kiến đối với lãnh đạo một lần nữa chứng tỏ sự trưởng thành, sự lớn mạnh không gì lay chuyển nổi của chế độ ta. Có thể nói rằng chế độ nào càng mạnh thì tự do ngôn luận càng rộng. Bọn tay sai đế quốc Mỹ ở miền Nam bó nghẹt quyền tự do ngôn luận, ta chẳng bảo là bằng chứng suy yếu của chế độ thối nát đó sao?
Nhưng tiếc rằng bên cạnh những việc phát biểu đàng hoàng, quang minh, đáng được khuyến khích ấy lại có những việc theo tôi không lấy gì làm đàng hoàng lắm.
Người ta có quyền đánh một dấu hỏi to khi được tin ông Hoài Thanh nói chuyện với sinh viên, và chỉ với sinh viên thôi về vấn đề Trần Dần với Giai phẩm mùa Xuân, mặc dầu sau đó nội dung bài nói cũng có đăng trên Văn nghệ số 139.
Người ta có quyền hỏi: “Sao những khuyết điểm của ông Hoài Thanh trực tiếp liên quan đến văn nghệ mà ông lại tự phê bình với sinh viên trước, và khi nói lại phải giấu kín các văn nghệ sĩ, giấu kín các báo trong khi các báo đang sôi nổi bình luận vấn đề mà nhân dân đang thắc mắc nóng hổi?”
Báo Hà Nội hằng ngày số ra ngày 20-09-56 đã viết: “Chắc lại sửa soạn gì đây?”
Người ta đoán có lẽ buổi nói chuyện đó dưới hình thức tự phê bình có mục đích dọn đường cho ông Hoài Thanh bước chân từ làng “văn” vào làng “giáo”. Mặc dầu có nhiều văn nghệ sĩ là giáo sư hay ngược lại, buổi nói chuyện đó vẫn có thể gây thắc mắc không riêng gì giới văn nghệ mà cả trong giới sinh viên nữa.
Nhưng đó là một vấn đề khác mà những câu trả lời của ông Nguyễn Mạnh Tường đăng trên báo Nhân văn số 1 đã nêu ra nguyên tắc.
Ở đây, tôi chỉ xét câu chuyện của ông Hoài Thanh trong phong trào văn nghệ hiện nay.
Ông Hoài Thanh đã nhận rằng trong việc phê bình Trần Dần, ông đã dùng lối áp bức mệnh lệnh, lấy đa số đàn áp thiểu số, đã lầm lẫn bạn và thù, cho Trần Dần là phản động vì đã mang sẵn thành kiến trong mình lại “dựa dẫm vào ý kiến chung quanh”, do đó gây ra không khí e ngại không có lợi, có thể làm cho người ta hiểu lầm về bản chất hoàn toàn tự do của văn nghệ ta rồi kết luận là đã rút ra được một bài học lớn.
Nhưng khi đọc bài tự phê bình (tôi không được cái hân hạnh đi dự buổi nói chuyện) tôi vẫn cảm thấy sở dĩ ông Hoài Thanh có khuyết điểm nặng như trên là do Trần Dần đã “gieo rắc buồn nản hoang mang”; do thơ Trần Dần “có sức là tiêu ma chí khí đấu tranh”, ông chỉ có khuyết điểm là cách đấu tranh không đúng với tư tưởng phi vô sản; hơn nữa là do những tin tức về vụ Hồ Phong bên Trung Quốc vừa truyền sang, do dựa dẫm vào ý kiến chung quanh nhiều hơn là do bản thân ông, chưa chắc đã là do quan liêu, mệnh lệnh, tôn sùng cá nhân, ăn cánh mà có. Nói một cách khác cho rõ hơn, ông Hoài Thanh chưa thành khẩn nhận lỗi, vẫn đổ cho khách quan và chưa công nhận những khuyết điểm mà các báo chí hay Giai phẩm đã nói ở trên, gián tiếp cho rằng quần chúng phê bình mình không đáng kể.
Hơn nữa, ông Hoài Thanh có viết là mãi đến khi Hồ Chủ Tịch nói ở vườn hoa Ba Đình, ông mới nghe như đột ngột đã phạm sai lầm lớn. Câu này ý mâu thuẫn với ý đoạn ông viết ở trên là ông đã đo được sai lầm của ông sau khi anh em văn nghệ sĩ phê bình ông rất sôi nổi ở lớp học lý luận văn nghệ.
Lại còn nữa. Ông nói là rất thấm thía khi có một đồng chí T.Ư nói “Gắn một chữ phản động vào tên người ta như vậy là một điều đến mấy đời sau này con cháu người ta còn lấy làm khổ”. Rất đúng. Nhưng tôi vẫn cảm thấy qua câu này rằng có chỉ đồng chí T.Ư mới làm ông thấm thía thôi chứ anh em văn nghệ sĩ phê thế nào cũng không thể thấm thía được.
Tư tưởng sùng bái cá nhân, coi nhẹ ý kiến quần chúng vẫn bộc lộ trong lập luận bài tự phê và ngay trong bản chất, trong tiến hành việc tự phê nữa.
Tôi không tham gia Giai phẩm mùa Thu hay báo Nhân văn, lại cũng có ý kiến bất đồng với nhiều bài trong đó nữa. Nhưng tôi vẫn kết luận:
Cán bộ có thành khẩn, mạnh dạn tự phê bình mới tránh khỏi sự đào thải, mới cải tiến được công tác, mới tăng thêm uy tín của Đảng, của Chính phủ.
Đã đến lúc mà bất cứ công việc gì có ảnh hưởng lớn đến quần chúng đang thắc mắc nóng hổi, cần phải được giải quyết rạch ròi như ban ngày trước mặt họ. Quyết không thể giải quyết những vấn đề như thế theo kiểu thường làm từ trước tới nay được.
22-9-1956
Thanh Bình(cán bộ văn nghệ miền Nam)
Vài ý nghĩ về thái độ tự phê bình của ông Hoài Thanh
Báo Văn nghệ số 139 đăng bài tự phê bình của Hoài Thanh. Tôi mong mỏi bài ấy từ lâu nhưng đọc xong tôi thấy thất vọng. Tôi có ấn tượng còn lâu lắm mới giải quyết được vụ Giai phẩm mùa Xuân. Khuyết điểm bài phê bình ấy không phải là khuyết điểm đơn thuần của một nhà phê bình văn học mà nó là khuyết điểm của việc lãnh đạo, của Hội Văn nghệ mà ông Hoài Thanh là đại diện. Đó là thực tế. Bài tự phê bình của ông Hoài Thanh chưa cải thiện được tình hình chút nào, vì không đáp ứng được đòi hỏi của anh em văn nghệ sĩ quần chúng. Tôi không muốn trở lại nội dung bài thơ "Nhất định thắng" mà chỉ nói về thái độ tự phê bình của ông Hoài Thanh.
Mở đầu bài tự phê bình, ông đưa những lý luận về đấu tranh tư tưởng. Lý ông nói thì cũng đúng lý nhưng không đúng chỗ. Tôi không hiểu ông muốn tự phê bình hay muốn dùng lý luận để chứng minh việc ông phê bình bài thơ là đúng. Ông viết:
“Một bên là những tư tưởng cách mạng của giai cấp vô sản kế thừa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của nhân loại, một bên là những tư tưởng áp bức bóc lột, sa đoạ, đồi truỵ của xã hội thực dân, phong kiến cũ nó đang liên hồi phản công vào chế độ chúng ta...”
Tôi nghĩ: tư tưởng quan liêu, mệnh lệnh, áp bức kẻ dưới cũng là của xã hội thực dân, phong kiến cũ còn lại trong một số cán bộ lãnh đạo của chúng ta. Tôi cũng nghĩ rằng Trần Dần có áp bức, bóc lột ai đâu mà ông lại nói thế?
Ông Hoài Thanh đã chủ động điều khiển một cuộc họp để cho một số người đả kích anh Trần Dần một cách oan uổng không tiếc lời và chính tay ông đã viết một bản án gieo oan vu hoạ cho Trần Dần. Thể xác Trần Dần suýt thành đất đen, sinh mệnh chánh trị Trần Dần bị thủ tiêu, quyền sáng tác thiêng liêng của nhà văn Trần Dần bị chà đạp. Những cực khổ ấy chưa đủ ư? Mà trong bài tự phê bình ông còn đả kích thêm Trần Dần với những danh từ hiểm độc: “trịch thượng”, “hoang loạn”, “tâm trạng âm u, điên loạn”...
Ông còn cho rằng “đấu tranh chống cái tác hại trong bài này là đúng”, nhưng thực tế có phải là đấu tranh chống cái “tác hại” của bài thơ ấy theo nguyên tắc chỉnh huấn “căm thù khuyết điểm, thương yêu đồng chí” đâu, mà chính là tiêu diệt tác giả bài thơ ấy theo tinh thần bè phái vu bạn là thù. Nhưng dẫu vụ Giai phẩm mùa Xuân xấu xa đến đâu đi nữa quần chúng cũng vẫn có độ lượng, cả những người trực tiếp bị tai hoạ cũng thế. Anh em văn nghệ sĩ, quần chúng muốn gì? Người ta muốn ông Hoài Thanh đại diện của Hội Văn nghệ thấy rõ khuyết điểm, tự phê bình nghiêm khắc và sửa chữa cụ thể. Thế thôi! Vì sao? Vì ai cũng yêu chế độ, tin ở Đảng và ghét những việc sai lầm.
Ông Hoài Thanh đã tự phê bình thế nào?
Đọc một đoạn dài ông kể tỉ mỉ những sự việc nó dẫn đến sai lầm của ông và phân tích, nhìn nhận nhiều khuyết điểm, tôi thấy ngòi bút của ông còn khách quan quá. “Khách quan” đây có nghĩa là chỉ những khuyết điểm như tất nhiên do hoàn cảnh, do anh em chung quanh gây ra mà ông chỉ là người “bị ảnh hưởng”. Ông Hoài Thanh dùng nguỵ biện để thanh minh cho mình nhiều hơn là tự phê bình nghiêm khắc. Người ta không thấy ở ông một chút gì hối hận, đau xót đối với một việc sai lầm độc ác to lớn như thế và ông cũng chưa tìm ra hay không muốn tìm ra nguyên nhân khuyết điểm của mình.
Ông cũng có nói:
“... Không thực chất cầu thị, không bình tĩnh sáng suốt thì thật là nguy hiểm, nhất là khi đứng trong cương vị lãnh đạo thì lại càng nguy hiểm hơn”.
Chữ “nguy hiểm” ông dùng một cách cũng nguy hiểm lắm. Người ta không hiểu nguy hiểm cho ai? Cho anh Trần Dần hay cho ông Hoài Thanh? Hay cho quần chúng? Không phải tôi chơi chữ đâu vì, ông Hoài Thanh không phải là người thiếu danh từ chính xác để tự phê bình, mà phải dùng đến những tiếng không rõ ràng, ấp úng. Ông nói có vẻ pha trò:
“Đấu tranh với sai lầm của người sao mà vội vàng thế? Đến khi đấu tranh với sai lầm của mình lại chậm chạp thế?”
Cách tự phê “bình khéo” léo ấy làm cho tôi chưa thấy ông Hoài Thanh thành khẩn nhận khuyết điểm của mình và đau xót với nó bằng nhiều người ngoài cuộc đau xót.
Một điểm khác mà tôi muốn nhấn mạnh là ông Hoài Thanh trong bài tự phê bình đã khinh miệt quần chúng và nịnh hót lãnh tụ một cách trắng trợn.
Suốt mấy tháng nay, trong bao nhiêu cuộc họp phê bình đóng góp xây dựng, dư luận báo chí, quần chúng bàn tán xôn xao như chuyện cháy nhà, xao động cả thủ đô, thế mà ông Hoài Thanh “cứng như thép vững như đồng” không mảy may lay chuyển. Ông nói:
“Mãi đến hôm Quốc khánh vừa rồi ở quảng trường Ba Đình, trước hàng chục vạn đồng bào, Hồ Chủ tịch sau khi nhắc lại những thắng lợi của ta nói rõ ràng cái điều trước đó đăng báo, nhưng hôm ấy tôi nghe như rất đột ngột là ta cũng đã phạm sai lầm lớn...”
Nguyên do thứ hai mà ông “thấm thía” khuyết điểm của mình là có một đồng chí Trung ương Đảng nói cho biết tác hại to lớn của việc ông đã làm.
Quả thật “nhờ đèn trời soi sáng”, ông Hoài Thanh mới thấy được sự thật, còn bao nhiêu đau khổ bi đát của người chịu tai hoạ do ông gây ra, bao nhiêu tiếng phẫn nộ của anh em văn nghệ sĩ, của quần chúng, ông đều coi thường cả. Ông vô tình hay cố ý mà không nghe, không thấy?
Tôi tự hỏi: Nếu hôm Quốc khánh, ông Hoài Thanh vì việc gì khác không đến quảng trường Ba Đình hoặc Hồ Chủ tịch bận việc không đến được và hôm nào đó ông không gặp đồng chí Trung ương thì vấn đề này sẽ ra sao? Ông có viết bài tự phê bình không?
Tôi thấy sau khi đã học tập về sai lầm của Sta-lin rồi mà đầu óc sùng bái cá nhân của ông Hoài Thanh còn đặc sệt đến như thế thì không còn trời đất nào nữa. Một bên thì ông nịnh hót lãnh tụ, nịnh hót Trung ương như thế, một bên ông khinh miệt văn nghệ sĩ như thế thì làm gì ông thấy rõ được con người của ông và việc làm của ông.
Ông Hoài Thanh nói: “Lúc bấy giờ đã đo được cái sai lầm của tôi”.
Tôi thấy ngược lại đến bây giờ ông cũng chưa đo được đúng mức sai lầm của ông bởi vì ông chỉ “thấm thía”, với cái ý kiến cấp lãnh đạo mà không thấm thía với ý kiến của quần chúng văn nghệ sĩ. Ở đoạn chót, ông cũng có viết “anh em giúp tôi”, vì để kết luận bài tự phê bình ông phải nói một câu công thức chứng tỏ tinh thần lắng nghe quần chúng nhưng đồng thời cũng lại để cho người ta thấy ông đã chỉ tự vươn mình lên thôi.
Tệ hại hơn là ông Hoài Thanh đã lợi dụng bài tự phê bình để đề cao cá nhân mình. Sau khi đả kích Trần Dần thêm, viện lẽ để bào chữa cho mình, tán dương lãnh tụ rồi thì ông tự tán dương mình. Đọc xong bài tự phê bình người ta thấy gì? Ta thấy một Hoài Thanh được “chỉnh huấn”, “tham gia đấu tranh ở nông thôn”. Ông vươn mình lớn hẳn lên theo lãnh tụ. Lời nói của Hồ Chủ tịch, của đồng chí Trung ương Đảng giúp cho ông thầy “đường hướng mới” để đi theo và “gột rửa tàn tích” cho mình. Tuyệt nhiên không có một chữ nào ông nói đến tác hại của việc làm, đối với Trần Dần, với phong trào văn nghệ. Tôi có cảm giác như ông đã “tiến lên” bằng cách giày xéo bao nhiêu là nhân phẩm, bao nhiêu là tác phẩm.
Ngòi bút phê bình văn học lâu đời của ông Hoài Thanh, tác phong thành khẩn tự phê bình ở người cán bộ lãnh đạo, trách nhiệm tập thể của Ban Chấp hành Hội văn nghệ, vai trò tiền phong gương mẫu của người đảng viên và cao hơn hết là sự đòi hỏi của quần chúng không cho phép ông Hoài Thanh viết một bài tự phê bình chiếu lệ như thế đối với một sai lầm nghiêm trọng mà Trung ương Đảng, giới văn nghệ và quần chúng đã lên án từ lâu và hiện đang còn tác hại.
27-9-56
Hoàng Cầm
Đọc lại Vũ Như Tô, kịch của Nguyễn Huy Tưởng
Là một người ham mê tìm đề tài trong lịch sử dân tộc viết thành kịch, tôi đã rất ham mê khi đọc lại vở kịch năm màn của Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng.
Tác giả đã dựng một nhân vật lịch sử Vũ Như Tô, một nghệ sĩ có tài, một nhà kiến trúc ôm hoài bão lớn là xây dựng một công trình nghệ thuật vĩ đại, tô điểm cho non sông. Hoài bão đó phù hợp với cuồng vọng của một tên bạo chúa – Lê Tương Dực - muốn có một toà lầu nguy nga để hưởng lạc thú. Nhưng tấn bi kịch đã xảy trong cái mâu thuẫn gay go giữa chế độ bạo ngược và tài năng nghệ sĩ. Lê Tương Dực thích có Cửu trùng đài, nhưng không tôn trọng, quí mến thiên tài. Hắn thích sống trong toà lầu nguy nga, nhưng lâu đài đó phải xây dựng bằng xương máu nhân dân đang oán ghét hắn, oán ghét chế độ thối nát của triều đại phong kiến đang đổ vỡ. Bản thân nhà nghệ sĩ Vũ Như Tô cũng gặp một mâu thuẫn, bi đát giữa trí sáng tạo rộng lớn với hoàn cảnh thực tế của nhân dân đói khổ lầm than mà nghệ sĩ vô cùng thương xót. Làm thế nào để đạt được nghệ thuật làm giàu cho kho tàng mỹ thuật của đất nước mà nhân dân lại không phải chịu sưu cao thuế nặng, tốn xương, tốn máu? Cái mâu thuẫn đó không thể giải quyết được. Bọn phong kiến đánh lẫn nhau, nhân dân nổi lên lật đổ bạo chúa. Kết quả: toà lầu không xây dựng được, nhà nghệ sĩ phải chết chém.
Nguyễn Huy Tưởng đã nêu bật được cái mâu thuẫn sâu sắc đó trong lịch sử. Hai nhân vật rất đẹp, rất tự hào, sống sôi nổi dưới ngòi bút của anh; Vũ Như Tô và Đan Thiềm, một cung phi đồng tình với nghệ sĩ.
Và tên bạo chúa Lê Tương Dực cũng hiện ra: cuồng bạo, bỉ ổi, tiêu biểu cho một triều đại phong kiến suy tàn và độc ác. Những rung cảm mãnh liệt của tác giả trước một nhân vật lớn, một nghệ sĩ của nhân dân, đã thổi một hơi rất mạnh khiến ngòi bút Nguyễn Huy Tưởng trở nên sâu sắc. Qua 10 năm, từ khi vở kịch được in ra (1946-1956), tôi đọc lại và theo con mắt của một người đã từng sáng tác, đạo diễn và biểu diễn kịch lịch sử, tôi đã tưởng tượng ra những sân khấu rất tráng lệ, trong đó tấn thảm kịch Vũ Như Tô diễn ra, đau đớn nhưng mãnh liệt, những cảnh đó, với diễn viên chọn lọc và một nhà đạo diễn thông minh mà chúng ta không thiếu, nhất định sẽ nói được cái lớn lao của tâm hồn nghệ sĩ nhân dân: không khuất phục trước cường quyền, một lòng tin vững chắc vào nghệ thuật của mình làm khiếp đảm tên bạo chúa. Đồng thời, chúng ta sẽ thấy được cái mâu thuẫn ghê gớm giữa sức phát triển của nghệ thuật và chế độ không có tự do của bọn phong kiến. Cuối cùng trên sân khấu, tài năng của nhà nghệ sĩ Vũ Như Tô đã bị giẫm nát, đốt cháy, nhưng cũng lại do cái thông cảm lớn của Nguyễn Huy Tưởng, chúng ta thấy nghệ thuật của nhân dân có một ánh sáng lớn mãi muôn đời về sau, và tâm hồn nhà nghệ sĩ Vũ Như Tô đã như những tia hào quang rọi mãi từ thời Lê mạt đến chúng ta ngày nay.
Cuộc cách mạng vĩ đại của nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, đã mở một chân trời rộng cho nghệ thuật. Văn nghệ sĩ nhất trí theo đường lối chính trị của Đảng, nhất trí với quyền lợi của nhân dân. Rồi đây trong cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, biết bao nghệ sĩ có tài sẽ càng ngày càng được khuyến khích, hun đúc tài năng, tạo nên những công trình nghệ thuật lớn cho nhân dân, muôn màu, muôn vẻ, làm thoả mãn đuợc cái khát vọng của bao nhiêu nghệ sĩ ngày xưa bị vùi dập bởi cường quyền, hôn quân, bạo chúa, thực dân, phát xít.
Kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng, tuy bố cục còn lỏng lẻo (ở màn 2, màn 3) và lời nói của nhân vật nhiều chỗ chưa gọn, về căn bản tác giả đã thành công. Màn 1, màn 4, màn 5 là những màn sôi nổi nhất phản ánh sâu sắc cái mâu thuẫn gay go, bi thảm mà chủ ý tác giả định phơi bầy.
Chúng tôi nghĩ rằng các đoàn văn công lớn, các đoàn kịch tư nhân và Ban Nghiên cứu Sân khấu của Bộ Văn hoá sẽ xét lại một số kịch bản đã bị bỏ quên, nhất là vở Vũ Như Tô, và mạnh bạo đưa lên sân khấu, qua tay những đạo diễn nhiều kinh nghiệm như Thế Lữ, Chu Ngọc, Phan Vũ, Hoàng Tích Linh v.v... Làm như thế, chúng ta sẽ thoát khỏi tình trạng “thiếu vở” hiện nay, và trong khi chờ đợi có những vở mới, khán giả cũng đỡ phải xem đi xem lại một vài vở kịch giả tạo, công thức, đã quá nhạt nhẽo trước cuộc đời.
Trần Phương
Coi trọng ý kiến và con người anh chị em biểu diễn nghệ thuật
Cuối năm 1954, một số anh em trong Văn công Trung ương cộng tác sáng tác vở ca kịch Lửa rừng để góp phần xây dựng cho Đại hội Văn công Toàn quốc và cũng mang một mong ước góp thêm những viên gạch đầu tiên cho nền nhạc kịch mới của đất nước. Công trình viết vở và làm nhạc mất gần hai tháng trời (không kể thời gian đi nghiên cứu và sưu tầm tài liệu). Vở kịch được sơ bộ dựng lên sau một tháng trời luyện tập có sự tham gia ý kiến xây dựng của những người lãnh đạo ngành văn nghệ tức là Vụ Nghệ thuật bây giờ. Ai cũng mang một hy vọng vở ca kịch Lửa rừng sẽ mang một tiếng nói quan trọng cho Đại hội về vấn đề ca kịch mới. Lửa rừng dược đem diễn thử tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Thời gian trôi qua, Lửa rừng không đuợc tập và cũng không được biểu diễn nữa... Tôi có hỏi Lê Yên, người sáng tác phần âm nhạc của vở kịch, Lê Yên trả lời là cũng không nắm được vấn đề cụ thể. Thế là chúng tôi, những anh chị em diễn viên của vở kịch chỉ hiểu vẻn vẹn là cấp trên nhận dịnh sai cho nên không tập, cũng không biểu diễn nữa và tất cả diễn viên lúc đầu cũng chưa ai phân tích nổi cái sai của vở kịch.
Sau khi đi hỏi người này, người khác câu chuyện mới vỡ nhẽ ra là như thế này:
Hôm diễn ở Nhà hát Lớn chỉ vì một cái lắc đầu và một câu phê: “Tiểu tư sản!” của một đồng chí lãnh đạo cao cấp trong văn nghệ, ấy thế là các đồng chí lãnh đạo cấp dưới quyết định đóng cửa ca kịch Lửa rừng và cũng bất cần cả ý kiến của những con người đã đổ mồ hôi nước mắt, đã thao thức từ đêm này qua đêm khác cho vở kịch.
Tôi nghĩ đến những buổi học tập của diễn viên, lời nói của Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư còn như sang sảng bên tai: “... Người diễn viên, lao động sáng tạo nghệ thuật của mình, ý kiến người diễn viên góp phần vô cùng quan trọng cho sự thành công hay thất bại của vở kịch...” Tôi nghĩ đến lần đi xem biểu diễn những vở ca kịch lớn của nước bạn Trung Hoa, sau Bạch mao nữ và Lưu Hồ Lan rồi Tiếng hát trên đồng cỏ v.v...; những người diễn viên chúng tôi chua xót nhìn nhau nghĩ đến nền ca kịch mới của nước mình gần như chưa có gì, nghĩ đến trách nhiệm của mình, nghĩ đến cái lãnh đạo kém cỏi đã hạn chế sức sáng tạo trong đường lối trăm hoa đua nở của những con người sáng tác và biểu diễn ca kịch.
Ở đây tôi nói câu chuyện Lửa rừng làm một thí dụ trong nhiều sự việc ở những con người biểu diễn nghệ thuật trong các đoàn văn công để yêu cầu các đồng chí lãnh đạo đã nói thì phải làm, phải coi trọng, đề cao, lấy và phát triển ý kiến của những con người biểu diễn nghệ thuật. Một điệu múa, một bài hát, một vở kịch nên biểu diễn hay nên bỏ không phải ở một vài cá nhân lãnh đạo muốn hay không muốn mà phải do những người đã lao động vì nó nói tiếng nói trước nhất, đóng góp một phần quyết định quan trọng trong sự biểu diễn tác phẩm nghệ thuật.
Vấn đề thứ hai tôi muốn nói ở đây là những vấn đề trong đời sống sinh hoạt của người diễn viên. Tôi đã có dịp được gặp những anh chị em trong các đoàn nghệ thuật Liên Xô, Trung Hoa, cuộc sống thoải mái của họ gần như không phải bận bịu với những sinh hoạt hằng ngày. Họ không còn băn khoăn như những anh chị em diễn viên đội xiếc ở Vụ Nghệ thuật đã vào đội chín tháng trời, đã đi biểu diễn ở Hà Nội, Việt Bắc, khu Tả ngạn, Hữu ngạn (đồng bằng) mà vẫn chưa được tuyển dụng chính thức, vẫn còn phải mang theo một lo lắng: “Khi biểu diễn phải cẩn thận, ngã què chân mà lúc ấy không được tuyển dụng thì rồi sẽ làm gì?”
Trong chín tháng trời qua vẫn chưa đủ thời gian để nghiên cứu lý lịch hay sao mà vẫn để anh em canh cánh bên lòng một mỗi lo, ảnh hưởng tới việc biểu diễn như vậy. Nghệ thuật xiếc là một nghệ thuật vô cùng lao lực, rất dễ mang đến nguy hiểm cho người diễn viên, do vậy cần phải có chế độ bồi dưỡng và bảo hiểm tương đối thích đáng với lao động của họ. Đã sáu, bẩy tháng trời nghiên cứu mà đến nay vẫn chưa có thái độ dứt khoát, cũng vẫn một số sinh hoạt phí tạm tuyển trên dưới ba vạn đồng. Đó là một vấn đề rất thực tế, mang thêm một thắc mắc trong lòng anh em. Có phải là hoàn cảnh chúng ta hiện nay thiếu thốn quá đến mức như vậy không? Hay là sự chú ý của các đồng chí lãnh đạo còn chưa đoái hoài tới? Câu chuyện này không phải chỉ là diễn viên thắc mắc mà còn ở cả quần chúng nữa. Sau khi xem biểu diễn xiếc, thường có nhiều tiếng xì xào: “Trông diễn viên xiếc gầy quá, thương quá!” Thiếu tướng Chu Văn Tấn nói khi xem anh em biểu diễn: “Phải bồi dưỡng thêm cho sức khoẻ của anh chị em”.
Câu chuyện phải luôn luôn lo lắng về đời sống sinh hoạt rất phổ biến trong diễn viên. Sau một đem biểu diễn đã quá khuya, họ mệt mỏi nằm suy nghĩ lo lắng sáng mai không dậy được đúng còi, đúng kẻng. Người chuyên đánh đàn, lúc làm trực tinh cũng phải hô “nghiêm nghỉ” cho giống tác phong quân sự, người chuyên thổi kèn luôn luôn phải thắc mắc về cái chuồng lợn, chuồng gà cho đoàn. Những anh em khác bận rộn về chỗ ăn chỗ ngủ, cái bát, đôi đũa, cái bàn ngồi viết v.v... “trăm thứ bà dằn” đó đã làm bận bịu khá nhiều trong đời sống nghệ thuật của người biểu diễn.
Các đồng chí lãnh đạo, các đồng chí chính trị viên chưa thiết thực làm nhiệm vụ giúp cho tinh thần của diễn viên được trau dồi. Chưa có người chuyên trách lo cho anh em những vấn đề sinh hoạt linh tinh để tâm hồn khỏi bận bịu, tập trung được nhiều trong việc sáng tạo làm cho nghệ thuật biểu diễn của chúng ta phát huy được hết khả năng.
Tôi mạnh dạn phát biểu một vài ý kiến của một người biểu diễn nghệ thuật, rất mong được sự góp ý thêm của các bạn diễn viên, để xây dựng một nề nếp công tác và sinh hoạt tốt cho diễn viên bấy lâu bị coi nhẹ và kìm hãm.
Thơ Mai-a-cốp-ski
Nói lớn
Trần Dần dịch theo từ bản tiếng Pháp của Elsa Triolet. Chú thích của Elsa Triolet và Trần Dần
Các đồng chí cháu vẻ vang ơi!
Trong khi
moi đống đá thời kỳ này,
nghiên cứu cái ngày nay tăm tối
các cháu
có lẽ không hiểu rõ
ta là ai?
Các cháu
sẽ nghe thầy học giảng
đàn ong câu hỏi
thầy đem tri thức phủ lênđầy,
giảng rằng
Mai-a xưa
là nhà thơ ca ngợi nước đun sôi
đối nước lã, anh ta thù số một
Ông thầy hỡi!
hãy hạ đôi mục kỉnh!
Mặc tôi,
câu chuyện thời đại
câu chuyện tôi,
tôi kể lấy
Tôi là người tẩy uế,
là người phu gánh nước,
Cách mạng hô hào
tổng động viên tôi
tôi ra trận,
rời xa nơi thâm nghiêm kín cổng cao tường
là nơi ăn chốn ở nàng thơ,
con người kỳ quặc
Nàng có một khu vườn xanh xẻo:
một con tim
tí nước chảy
chút khí trời
một cái giường êm.
“Em dạo vườn em,
em hái bông hồng, bông lựu”
Anh thứ nhất đem thơ tới tưới
ướt người em!
Anh thứ hai
lại rảy nước thơ em!
- hết Mi-tơ-ray-ka lấm la
lại Cu-dờ-ray-ka lấm lét –
Quái quỉ chưa! Đố gỡ cho ra!
Chúng làm ta phát muộn phát sầu
đứng trên bao lơn,
chúng tình tang cây măng-đô-lin tang tính:
“thơ thơ, thiếc thiếc
iếc, ơ”...
Phúc phận mỏng,
tôi lìa xa hồng lựu ý,
nào pho tượng người tôi
xuất hiện
giữa công viên
đầy đờm mủ của người gái đĩ
người ho lao,
đứa vô lại,
kẻ tim la
Và tôi,
người tuyền truyền động viên
thực chán ngấy chưa nào
Tôi có thể
đẻ đái ra
những bản tình ca:
ăn tiền lắm!
thực là ăn khách lớn!
Nhưng mà không
tôi tự kìm hãm ghìm
tôi,
tôi dang chân
chẹn cổ họng tiếng tôi ca.
Các cháu ơi!
Hãy lắng nghe ta,
người tuyền truyền,
người thủ trưởng phóng thanh!
Tôi dập tắt
những dòng thơ man mác
bước chân qua
những trang sách trữ tình
tôi đến đây đúng như
người đang sống
nói cùng người đang sống.
Tôi đến nói với các con, các cháu
Trong đời cộng sản xa xăm
không phải đến
như loài Ét-xê-nhin hon hót.
Thơ tôi đến
trên đầu muôn thể kỷ
vượt qua vai
các vị cầm quyền, và mọi nhà thơ
Thơ tôi đến
không như cái lưỡi
trò chơi tình ái, đàn cầm,
cũng không như một đồng tiền cũ
đến tay nhà bác cổ mân mê
Cũng không như
sao tắt lịm trời
Thơ tôi
xé toang
đống năm tháng chất chồng nhau
Thơ tôi đến
nặng nề
thô tục,
gào kêu,
cũng tựa hôm nay đến với ra
những cống nước cầu cừ
người nô lệ La Mã xưa xây dựng.
Trong đống sách
là nấm mồ thơ phú
sắt thơ tôi bỗng ló mình ra.
Các cháu ơi,
tôn kính ta,
thì cũng chỉ sờ mó sắt thơ ta
như võ khí
đã cổ xưa
mà còn lợi hại
Tôi thì cái kiểu
dùng lời thơ mà gãi
chẳng phải nghề của tôi,
vành tai cô gái đồng trinh
qua món tóc xoăn
không thẹn đỏ
vì bị sờ tục tĩu
Tôi triển khai
đội ngũ những trang thơ
tôi đi duyệt
những dòng thơ bày thế trận.
chuẩn bị xong rồi!
những câu thơ nặng tựa chì
sẵn sàng đi
tử chiến
vĩnh viễn quang vinh
Những bài thơ,
đại bác xếp bên nhau
đang nhằm bắn
những đầu đề khoát đạt.
Những lời châm biếm thông minh,
là võ khí sở trường riêng,
chúng đứng đây kia
chuẩn bị sẵn sàng
vó ngựa ghìm cương
ngọn thương tua tủa,
những vần thơ nhọn hoắt mũi lê,
chúng lao lên
hò hét xuất quân.
Và, tất cả những đoàn quân
trang bị kỹ càng này,
đoàn quân đã hai mươi năm
liệng mình trong chiến thắng, -
không tiếc một trang nào
tôi hiến cả cho anh
người vô sản địa cầu ta.
Mọi kẻ thù
giai cấp công nhân
đối với tôi, cũng là kẻ tử thù.
Những năm nhọc nhằn,
những ngày đói khổ
giục ta đi
theo cờ đỏ dẫn đường.
Ta mở
sách Mác
quyển này quyển nọ
như khi ta
mở toang cửa sổ nhà ta.
Nhưng dù không đọc sách
con người ta cũng biết
phải đứng bên nào
sống thác
đấu tranh.
Đối chúng ta
biện chứng
không do Hê-ghen đem tới.
Mà nó ở trong sấm bão đấu tranh.
Nó xô xát vần thơ,
trong khi đó
dưới đạn ta
bọn tư sản
quất ngựa chạy cuồng
cũng như ta
quất ngựa chạy
khi xưa.
Khi thiên tài chết,
cô Vinh Quang đưa đám
goá bụa tủi hờn, -
cũng có câu thơ tôi gục ngã
vô danh
như người lính của ta,
một chiến sĩ
đi tấn công
gục ngã.
Tôi thì tôi chẳng thiết
những đồng hun hàng tấn
tôi cóc cần
đá bục tượng thơm danh!
Chia nhau vinh dự làm gì?
ta cả mà thôi:
tất cả chúng ta
chỉ cần
một đài kỷ niệm chung
là Chủ nghĩa Xã hội.
chính tay ta dựng.
Các cháu ơi,
hãy xem lại những nút phao nổi trên tự điển
nước sông Mê
trôi
nhiều xác chữ
tựa như những chữ
“làm đĩ”
“vây hãm”
“ho lao”.
Các cháu ạ,
vì muốn cho các cháu vạm vỡ, dẻo dai
ta,
thi sĩ,
ngày đêm ta quyét
những mủ đờm phổi khạc
bằng lưỡi tranh áp phích gạn lì
Những năm tháng nối đuôi tôi
làm tôi giống như một con sò kỳ quặc
đuôi dài.
Hỡi đồng chí cuộc đời,
hãy đi nước đại, nhanh lên!
Những ngày kế hoặch năm năm
Nhanh hơn nữa
tới ngày kết quả!
Thơ tôi
chẳng kiếm được xu nào dành dụm
Người làm đồ gỗ
chưa bao giờ
trang trí cửa nhà tôi.
Thực ra,
ngoài chiếc áo sơ mi tươi tắn,
tôi chẳng cần gì
Trước
bộ kiểm tra Trung ương Đảng
những năm trong sáng tương lai,
vượt trên
lũ nhà thơ
bạc lận cờ gian
tôi sẽ giơ cao
tờ chứng minh thư Đảng
là toàn tập thơ bôn-sê-vích tôi làm
(1930)
Chu Ngọc
Quần chúng đã chán ghét lối “chặn họng” ấy rồi
Sau khiNhân văn số 2 ra rồi, dư luận trong quần chúng cho rằng chúng tôi trả lời bạn Nguyễn Chương và báoNhân dân như thế nào là ôn hoà, phải chăng và tình hình có thể dịu đi để tiến tới hiểu nhau hơn.
Bởi vậy chúng tôi đã gác lại những bài của anh em văn nghệ sĩ, trí thức và những ý kiến phát biểu của bạn đọc về sự chỉ trích của bạn Nguyễn Chương và báoNhân dân. Nhưng báo số 3 đang in thì lại thấy bạn Nguyễn Chương lên tiếng trên báoNhân dân một lần nữa, tiếp tục chụp mũ chúng tôi thế này thế khác. Do đó chúng tôi bất đắc dĩ phải trở lại vấn đề.
Bài này của anh Chu Ngọc cũng như ý kiến của các bạn Trần Bái và Phùng Bảo Kim đều mới trả lời vào bài cũ của bạn Nguyễn Chương. Đối với bài mới của bạn Nguyễn Chương, nếu cần, chúng tôi sẽ trả lời trong số báo sau.
Tôi không đi vào phân tích toàn bộ bài phê bình báo Nhân văn của ông Nguyễn Chương trên báo Nhân dân.
Tôi chỉ nói đến lối phê bình “chặn họng”, phá đoàn kết vì tính chất mệnh lệnh, uy hiếp tinh thần và khinh miệt quần chúng của nó.
Ông Nguyễn Chương kết luận phần nhận định báo Nhân văn rằng: “Bọn Mỹ, Diệm hiện đương ra sức vu cáo chế độ miền Bắc là không có tự do, dân chủ cho nên chưa thể tổng tuyển cử để thực hiện thống nhất nhà nước được.
Chúng ta không nên mắc vào âm mưu của chúng.”
Phải xem lại toàn bộ báo Nhân văn số 1 xem có bài nào, điểm nào chúng tôi “vu cáo” để “mắc vào âm mưu của địch”?
Phương pháp phê bình theo chủ nghĩa nghĩa Mác-Lênin là thực sự cầu thị. Phê phán phải dựa trên cơ sở thực tế, nghĩa là phải dẫn chứng. Nếu không chỉ chung chung, suy diễn. Và khi đã suy diễn tất nhiên phải tiến tới một quy kết hồ đồ.
Bài phê bình của ông Nguyễn Chương đã mắc vào sai lầm ấy.
Vì rằng Đảng và Chính phủ đương phát động rộng rãi phong trào phê bình trong nhân dân quần chúng để củng cố lại đường lối, chính sách cho phù hợp với nguyện vọng nhân dân. Công tác đó đã tiến hành ở các cơ quan, đoàn thể và các khu phố ở thủ đô cũng như nơi khác. Về ngành văn nghệ, báo Nhân văn có nêu lên một số hiện tượng sai lầm của lãnh đạo văn nghệ. Chứng người, chứng việc hiện còn đương sống với chúng ta.
Chúng tôi chỉ muốn thực hiện đúng phương châm trong việc phê bình của chúng ta là: Nói thẳng, nói thật, nói hết.
Báo Nhân dân là cơ quan của Đảng, ông Nguyễn Chương là một đảng viên, tất nhiên không lạ gì phương châm ấy.
Vậy khi nhân dân phát hiện một vấn đề nào, chúng tôi nghĩ cơ quan của Đảng cũng như các đồng chí đảng viên nên vui vẻ tiếp thu để nghiên cứu, sửa chữa. Sửa chữa để củng cố chế độ của chúng ta cho mỗi ngày một thêm tươi sáng.
Mà xây dựng chế độ, chúng tôi thiết nghĩ, chủ yếu là để cho nhân dân chúng ta sống một cuộc đời no, ấm về thể xác và cởi mở về tinh thần.
Vậy khi thấy một trở lực nào ngăn cản nguyện vọng ấy thì nhân dân đề đạt lên trên để yêu cầu sửa chữa, như thế có hại gì đến việc tiến hành củng cố miền Bắc, chiếu cố miền Nam?
Nguyện vọng của chúng tôi là thế chứ chúng tôi không bao giờ có ý “muốn làm cho người ta hiểu lầm rằng toàn bộ sự lãnh đạo của Đảng và toàn bộ chính trị miền Bắc là độc đoán, độc tài, chà đạp văn nghệ sĩ, chà đạp con người, không có ‘nhân văn’”.
Sao chúng tôi lại bị vu như thế với cái kết luận “chúng ta không nên mắc vào âm mưu của địch”?
Với luận điệu chụp mũ này người ta có thể hiểu rằng, theo báo Nhân dân và ông Nguyễn Chương thì không nên phát hiện gì cả. Chỉ nên phổ biến rộng rãi cái tác phong tiêu cực này ở các khu phố: “thứ nhất ngồi lỳ, thứ nhì đồng ý”.
Nếu không, cứ nói thật lên thì lại “mắc vào âm mưu địch”.
Tuy vậy ông Nguyễn Chương cũng nên thông cảm cho quần chúng là quần chúng không đến nỗi lạc hậu, hèn kém tới mức ấy đâu.
Người nào cũng có tai, có mắt, có bộ óc, có trái tim, đi theo cách mạng, phục vụ cách mạng không kỳ gian khổ, nhưng cũng không để ai có quyền khinh miệt quần chúng.
Tinh thần cách mạng chân chính chống lại bất cứ cá nhân, hay bè phái nào hạn chế tự do tư tưởng của quần chúng.
Cho nên khi thấy một mặt Đảng kêu gọi “nói thẳng, nói thật, nói hết” mà mặt khác những đảng viên như ông Nguyễn Chương và báo Nhân dân lại đe doạ: Công khai đấu tranh chống những sai lầm khuyết điểm của ta là chống chế độ, chống Đảng, là mắc mưu địch v.v... thì còn ai hiểu được! Cái lối khoá miệng quần chúng ấy đã khá phổ biến. Và đã bị và đương bị phản đối.
Quần chúng của Đảng, nhân dân của chính thể này đã chịu sự giáo dục của Đảng, của chủ nghĩa Mác Lê-nin, phân biệt được thể nào là ta, thế nào là địch.
Suy diễn, nghi ngờ, gán ghép, khinh miệt quần chúng, đánh giá địch quá cao đã có nhiều hậu quả chua xót rồi. Quần chúng đã chán ghét đến cực độ luận điệu “chặn họng” cũ rích ấy rồi.
Báo Nhân văn không hề có tư tưởng bôi xấu chế độ. Vì một lẽ rất giản dị, là những người làm báo Nhân văn đều là con đẻ của chế độ xã hội miền Bắc. Họ với chế độ như thịt với da. Đời và tâm hồn họ gắn liền với sự sống còn của chế độ.
Nhờ được ánh sáng của Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô đã thấm vào người họ, họ lớn lên, mắt họ sáng ra, máu họ tươi thêm, mặt họ ngẩng lên, họ nhìn thấy trách nhiệm, thực sự thấy mình là chủ nhân của cuộc đời, họ thấy mình không phải là con rối.
Họ phải làm việc.
Và việc đầu tiên của họ là muốn đánh bật tận gốc những tàn tích phong kiến và thực dân trong hàng ngũ lãnh đạo văn nghệ nói riêng và hàng ngũ cách mạng nói chung.
Chúng tôi cố gắng đấu tranh trong tổ chức, song liên tục chúng tôi bị chế ngự, nguyện vọng của chúng tôi lên tới Trung ương Đảng đã bị thay thế bằng nguyện vọng của bè phái họ.
Chúng tôi nói lên sự thực, mục đích đề Trung ương Đảng nhận định lại vấn đề lãnh đạo văn nghệ.
Đó có phải là một hành động tội lỗi không?
Giải quyết được tình trạng bè phái lãnh đạo văn nghệ là góp được một phần khá lớn vào sự nghiệp củng cố miền Bắc, thống nhất nước nhà.
Chúng tôi đặt vấn đề như thế.
Đó là nguyện vọng của chúng tôi. Do những tấm lòng tha thiết ấy, chúng tôi nêu lên: “BáoNhân văn đứng dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, theo chủ nghĩa Mác Lê-nin” là chúng tôi đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng, trong lúc đấu tranh nội bộ gay gắt này.
Ông Nguyễn Chương cho đó là chúng tôi “nêu lên như một cái chiêu bài”.
Với thái độ này, tôi thấy như ông Nguyễn Chương gạt quần chúng ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng trong khi quần chúng thiết tha lăn vào.
Thử xét lại xem qua thái độ đã toát ra từ bài phê bình, qua những nhận định và sự phê phán báo Nhân văn, ông Nguyễn Chương và báo Nhân dân đã giúp đỡ chúng tôi những gì để chúng tôi đấu tranh? Hay chỉ toàn thấy những giọng trịch thượng, hống hánh, chia rẽ, gây cho chúng tôi những cảm tưởng không tốt về một cán bộ tuyên huấn cao cấp và về vai trò của cơ quan ngôn luận Trung ương Đảng?
Nhân văn
Mấy lời chân tình gửi bạn đọc: Về dư luận xung quanh Nhân văn
Báo Nhân văn ra đời, được các bạn khuyến khích, phê bình rất sôi nổi. Từ số 1 (ấn hành 2000 tờ) đến số 2 (ấn hành 6000 tờ), lần nào cũng chỉ trong một ngày là hết báo, điều đó chứng tỏ bạn đọc rất tha thiết đến việc mở rộng tự do dân chủ của chế độ và việc vận động đổi mới công tác văn nghệ, công tác trí thức.
Tuy nhiên, trong công việc xuất bản tờ báo này, chúng tôi còn mắc nhiều khuyết điểm mà hôm nay chúng tôi cần phải trình bày với các bạn và mong các bạn lượng thứ cho.
- Báo ra không đúng kỳ, không báo rõ ngày, khiến các bạn phải chờ đợi thắc mắc.
- Tổ chức trị sự (phát hành, thu tiền) rất luộm thuộm. Có nhiều bạn mua báo dài hạn đã không nhận được báo, hoặc nhận được chậm. Có nhiều bạn muốn mua báo dài hạn mà không biết gặp ai để ghi tên. Địa điểm bố trí báo chưa đều, nên có khu vực tập trung nhiều quá, có khu vực lại không có chỗ bán, khiến nhiều bạn tìm mua rất khó nhọc.
- Nội dung tờ báo, ngoài cuộc đấu tranh về văn nghệ, chưa đề cập đến nhiều vấn đề văn hoá, xã hội cụ thể đang nóng hổi trong tim, óc quần chúng như giáo dục, y tế, sinh hoạt nhân dân v.v...
Những thiếu sót đó là do chúng tôi vừa ít tiền vừa thiếu kinh nghiệm và trong khi gặp khó khăn về ấn loát, về mua giấy, về trụ sở, chúng tôi đã lúng túng trong phần trị sự cũng như phần biên tập; phần đông anh em lại ở trong biên chế chính quyền hay đoàn thể, làm báo Nhân văn có một tay trái.
Chúng tôi đang cố gắng sửa chữa những khuyết điểm, nhược điểm đó.
Tiện đây, chúng tôi đề nghị các bạn chú ý hai điều rất quan trọng chung quanh việc báo Nhân văn ra đời:
1. Ngay từ số 1, dư luận nhân dân, cán bộ và các báo rất sôi nổi về Nhân văn. Có nhiều người tán thành, nhiều người phản đối, thậm chí đi đến chỗ mạt sát khiêu khích báo Nhân văn và một số anh em cộng tác với tờ báo. Chúng tôi để ngoài tai những lời mạt sát, phỉ báng đó, kiên nhẫn tiếp tục nhiệm vụ và vẫn coi thái độ đối lập kia chỉ là thái độ hấp tấp, sai lầm của bạn với bạn mà thôi. Do quan niệm khác nhau về tự do dân chủ nên sinh ra mâu thuẫn; nhưng, tựu chung vẫn là người một nhà nên trước sau rồi cũng thống nhất. Mong bạn đọc sẽ đồng tình với chúng tôi và tránh mọi thái độ không lợi cho đoàn kết.
2. Nhưng bên cạnh ta, vẫn còn lẩn quất những tay sai của đế quốc Mỹ và bè lũ Ngô Đình Diệm muốn nhân lúc này, thò bàn tay bẩn thỉu vào chia rẽ hàng ngũ cách mạng. Chúng nhầm to. Báo Nhân văn cũng như các bạn, không mắc lừa chúng. Mọi âm mưu chia rẽ, phá hoại của chúng sẽ thất bại. Mong độc giả sẽ cùng với chúng tôi đề cao cảnh giác, chống mọi âm mưu xuyên tạc, ly gián của địch.
Ngoài ra cũng còn một số người lạc hậu mang nặng tàn tích đế quốc và phong kiến, tuy đứng trong hàng ngũ cách mạng, nhưng vì quyền lợi, địa vị cá nhân, nên có hành động hoặc lời nói vu cáo, đe doạ định bóp nghẹt dân chủ bằng những phương pháp khi lén lút, khi trắng trợn. Chúng tôi mong bạn đọc sẽ cùng với chúng tôi đấu tranh thẳng thắn với những phần tử xấu đó, để bảo vệ tư do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do nghiên cứu và sáng tác, làm cho chế độ ta thêm tốt đẹp.
Nói tóm lại, báo Nhân văn bao giờ cũng đứng dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, kiên quyết đấu tranh cho thống nhất đất nước và dân chủ thực sự - một cuộc đấu tranh lâu dài gian khổ - và kiên quyết đánh tan mọi âm mưu phá hoại của bọn tay sai Mỹ, Diệm, và cả của những phần tử xấu trong hàng ngũ ta.
Tờ báo này là của các bạn. Các bạn hãy tích cực ủng hộ cho nó sống mãi và càng ngày càng phát triển.
Quảng cáo cho dầu cốt thần, dầu cù là, khuynh diệp hiệu Con Voi, 53 Hàng Gà, Hà NộI
Hà Bá
Chưa đẹp mắt- Trang trí và Trật tự
Ấy là câu chuyện nghệ thuật và xử thế.
Hôm nọ có kỷ niệm nhà đại thi hào Nguyễn Du của dân tộc. Ý nghĩa của buổi lễ thực là cao đẹp và chứng tỏ chế độ ta quí trọng những thiên tài đã cống hiến tinh hoa cho nền văn hoá của dân tộc. Nhưng buổi lễ có hai điểm đáng trách.
Bài trí ở trên sân khấu, nhiều chậu cây đuợc đem lên và có nhiều hoa. Ý chừng là nghĩa trăm hoa đua nở chăng? Nhưng ai lại đi cài hoa giả! Một thứ hoa giấy nửa giống hoa hồng nửa như hoa thược dược được cài vào. Đinh lăng mà cũng có hoa! Cây ngâu, các thứ cây, cây nào cũng trổ hoa giả, giả một cách lộ liễu, trắng trợn. Bày la liệt ở sân khấu. Giữa là một cái đỉnh đồng to tròn, trên là mấy chữ cắt dán lùng bùng và ọp ẹp. Thiết nghĩ Bộ Văn hoá và Hội Văn nghệ thiếu gì các nhà trang trí lại đi tô điểm như thế! Bàn diễn giả có một lọ hoa “lay ơn” còn ngậm nụ, to quá, lấp cả ông diễn giả Trương Tửu làm cho công chúng mỏi cổ để nhìn ông mà chỉ thấy đôi kính lấp loáng. Chưa hết. Một số khán giả ngồi xem thiếu lịch sự. “Tác phong dân chủ” đưa chân và giầy dép lên ghế trước, thúc vào lưng người ngồi đằng trước, hãy còn nhiều. Hàng chục bà con lại ngồi ngả người ra như lúc mỏi mệt nhất ở nhà mình. Chắc họ nghĩ: cụ Nguyễn Du không có mặt ở đây nên chả cần. Đứng lên ngồi xuống tự nhiên như ở quán giải khát. Xình! Xình! Những tiếng động ngang bướng như lên giọng bất chấp: diễn giả nói thì kệ diễn giả! Thì ra bà con tự cho mình hoàn toàn tự do trong ngôn ngữ và cử chỉ mà không chú ý đến sự nghiêm chỉnh rất văn minh của những đồng chí nước bạn đến dự buổi lễ.
Y Du
Địa ngục miền Nam
Quốc hồn quốc tuý
Ngày 26 tháng 10, Diệm sẽ tổ chức ở miền Nam lễ kỷ niệm tết Cộng hoà có ăn chơi, có đại biểu các nước, có duyệt binh đủ cả hải, lục, không quân. Nhưng ăn chơi thì ăn chơi lối Mỹ. Đại biểu thì đại biểu Mỹ, duyệt binh thì binh lối Mỹ... và hải, lục, không quân thì cũng của Mỹ nốt.
Như thế e rằng là không có tính chất dân tộc độc lập chăng? Vắt óc ra, Diệm chợt nhớ đến cái áo dài đen. Nó là “nghi thức cổ truyền thích hợp để tỏ lòng ngưỡng mộ và suy tôn các anh hùng cứu quốc!!!”
Các vị anh hùng cứu quốc nằm trong các lăng tẩm đền điện chỉ vào Diệm đồng thanh quát lớn:
"Thằng phản quốc đừng bán đứng tên tao!"
"... Mặc bộ quốc phục uy nghi người dân sẽ có dịp nhớ lại nguồn gốc của mình, tưởng niệm đến ông cha, nhớ ơn các vị anh hùng liệt sĩ, đã gây dựng nên giang sơn tươi đẹp ngày nay!!!"
Phạm Quỳnh nghe thấy hiện về bảo Ngô Đình Diệm:
"Ngài ăn nói quả có khéo hơn tôi thật!"
Đài Sài Gòn của Diệm còn triết lý:
“Âu phục tuy có gọn ghẽ, thuận tiện, nhưng chưa thể đánh đổ được bộ quần áo dài của ta... Vì với tinh thần yêu nước tha thiết, người Việt Nam lúc nào cũng tôn trọng những cái gì là Quốc hồn quốc tuý của mình, kể cả đồ trang phục. Tuy nó là hình thức bề ngoài nhưng rất quan hệ và ảnh hưởng đến việc duy trì nền văn minh dân tộc!!!”
Phường giá áo túi cơm bàn chuyện văn hoá dân tộc trên cái áo!
Áo dài nên màu gì?
“Màu lam tượng trưng sự vui mừng chế độ cộng hoà và hoan hô biện pháp”.
Cái màu lam bị buộc tội đồng loã với Diệm một cách oan uổng!
“Nhưng nếu không tiền may áo lam thì mặc áo dài đen cũng được.”
Đài Sài Gòn không phân tích về màu đen! Chính vì màu đen thường là mầu tượng trưng cho tang tóc, đen tối và buồn thảm...
Sĩ Ngọc
Bất mãn?
Hiện nay đang có một dư luận không đúng về phong trào phê bình của báo Nhân văn cho rằng những người viết báo ấy là một nhóm bất mãn.
Nói chung một số người có thẩm quyền trong giới lãnh đạo đang cần tung ta một nhận định nhằm cô lập báo Nhân văn và những người cộng tác của báo ấy. Thậm chí cho phong trào phê bình của những người viết ở Nhân văn là phản ứng giai cấp (không nói rõ là giai cấp nào?).
Tôi là một người có cộng tác với Nhân văn vì cho là báo này trong một phạm vi rộng rãi, đã đề cập tới những vấn đề nóng hổi của xã hội, của văn nghệ, nhất là vấn đề phê bình lãnh đạo văn nghệ đã mở đầu sôi nổi. Phê bình để tiến tới xây dựng một chính sách đúng, đẩy mạnh phong trào văn nghệ như ý muốn chung của quần chúng và của Đảng.
Trong phong trào phê bình ấy tất nhiên không tránh được một vài lệch lạc do phẫn uất tích luỹ lâu ngày nổ bùng ra, nhưng theo tôi nếu không phê bình mạnh thì không thể làm cho lãnh đạo thấy vấn đề cho đúng tầm quan trọng của nó. Nếu phủ nhận sự cần thiết đó thì không thể hiểu tại sao chỉ sau khi có những bài phê bình ấy ông Hoài Thanh, ông Nguyễn Tuân, ông Nguyễn Đình Thi mới viết tự phê bình (tuy chưa đúng mức) đăng trên báo Văn nghệ? Đáng tiếc là một số người đang lầm lẫn việc bảo vệ uy tín của lãnh đạo với việc giữ thể diện cho một số cá nhân lãnh đạo.
Theo tôi nghĩ, trong tình hình hiện tại, muốn cho uy tín của lãnh đạo giữ được và tăng thêm thì lại càng phải tự phê bình thành khẩn. Không nên sợ mất sĩ diện khi cái sĩ diện ấy có hại cho Đảng, đi ngược lại với quyền lợi của quần chúng. Không nên (dù hữu ý hay vô tình cũng không nên) lẫn lộn uy tín của cá nhân lãnh đạo với uy tín của Đảng. Nếu uy tín chỉ xây dựng trên sự “không dám nghe” của mình và “không dám nói” của người khác thì cái uy tín cũng nên vứt bỏ đi.
Uy tín của Đảng, của người cách mạng là ở chỗ biết nghe và biết sửa.
Một số người không hiểu như thế nên cứ tìm cách lẩn trốn sự thực, sợ những lời phê bình mạnh, họ tìm cách bịt miệng một số người để cho những người này lại bịt miệng một số người khác nữa... Thực mà nói, nếu những người ở Nhân văn sai, tôi chắc quần chúng bao giờ cũng có đủ sáng suốt nhận định. Họ không dễ bị lừa đâu. Ai dối họ, ai đi ngược lại với quyền lợi của họ, họ đều biết cả!
Làm như thế một là khinh quần chúng không biết gì hoặc là sợ quần chúng sáng suốt nghe những lời nói đúng sự thật. Làm như thế là không tốt.
Nhưng nếu các bạn cứ thấy chúng tôi không bằng lòng cái này cái khác của thời đại mà muốn tìm một danh từ nào đề chỉ hiện tượng đó thì chúng tôi không e ngại tiếng “bất mãn” đến như nhiều người tưởng.
Bất mãn! Tại sao không bất mãn?
Ai thoả mãn trước những sai lầm trong Cải cách Ruộng đất hiện nay? Ai thoả mãn với những sai lầm khác như những sai lầm trong chính sách văn nghệ và trí thức chẳng hạn?
Tôi chắc chắn rằng không phải chúng ta, những người đã tham gia cách mạng, sống chết với cách mạng, những con người của cách mạng. Chúng ta, những con người có nhiệt tâm với nhân dân với xã hội, những con người biết đau xót về những sai lầm tồn tại làm tổn hại đến việc xây dựng miền Bắc, đến công cuộc cách mạng, chúng ta không thể không bất mãn với những sai lầm ấy, với những con người làm ra những sai lầm ấy.
Chúng ta, những người làm văn nghệ phục vụ cho cách mạng, luôn luôn đòi hỏi sự tiến tới không ngừng của xã hội, chúng ta tất nhiên phải bất mãn với những lực lượng phản tiến bộ cản trở bước tiến của xã hội. Chúng ta, những người làm văn nghệ và văn hoá muốn cho chuyên môn của ngành mình phát triển để phục vụ cách mạng cho tốt, tất nhiên phải bất mãn với những cái sai lầm làm cho văn hoá văn nghệ đáng lẽ phải phát triển hơn nữa, thì bị kìm hãm. Bất mãn với những cái sai lầm là chính đáng. Chỉ có kẻ nào thoả mãn với cái sai kẻ ấy mới là kẻ có tội.
Nếu ai nói những người bất mãn ấy là phản ứng giai cấp thì hỏi giai cấp nào phản ứng trước những cái sai lầm có hại cho cách mạng? Thiệt thòi đến nông dân, đến công nhân, đến trí thức, đến cách mạng, ai thoả mãn?
Ai không phản ứng trước những sai lầm ảnh hưởng tai hại đến Cải cách Ruộng đất? Ai không phản ứng trước những sai lầm nghiêm trọng làm tổn thương cho miền Bắc chúng ta trong khi đang cần củng cố và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân để mau tiến tới xã hội chủ nghĩa?
Nếu ai khuyên: Này thôi đừng nói nữa bọn Mỹ Diệm nó lợi dụng”. Tôi trả lời: Thằng Diệm nó vẫn chỉ có một luận điệu nói rằng ở miền Bắc không có tự do nên nó không hiệp thương. Thì những cái phê nình công khai trong nội bộ miền Bắc chỉ càng chứng tỏ rằng chúng ta đang thực hiện một cách đầy đủ quyền dân chủ của chúng ta. Ở miền Nam, bọn Mỹ, Diệm có dám cho nhân dân phê bình chính quyền của chúng không? Ở miền Nam, bọn Mỹ, Diệm có dám bảo đảm đầy đủ tự do dân chủ cho văn nghệ sĩ không?
Tại sao lại sợ thằng Diệm nó biết mình dân chủ? Có là ngây thơ mới nghe lời nói vô lý ấy.
Chỉ có chính quyền dân chủ nhân dân do dân làm chủ có Đảng lãnh đạo mới có những cuộc phê bình mà phong kiến, đế quốc, phát xít, đều sợ, đều cấm, đều đàn áp. Chỉ có những chính đảng thực sự làm cách mạng, mưu cầu lợi ích cho dân tộc, cho nhân dân, được quần chúng ủng hộ như Đảng Lao động Việt Nam mới dám tiến hành sự thực hiện quyền tự do dân chủ thực sự cho toàn thể chúng ta.
Ai sợ phê bình? Tôi xin nói thẳng là những ông Quan liêu, ông Địa vị, ông Sĩ diện. Đó là những đứa con của phong kiến, đế quốc. Cho nên chúng vẫn cứ dùng cái luận điệu đã kinh nghiệm từ thời thiếu dân chủ mà bảo là bất mãn, phản ứng giai cấp v.v... cho những ai dám phê bình chúng. Đảng và Chính phủ đang tiến hành những biện pháp để sửa chữa những sai lầm trong đó có biện pháp sửa chữa tác phong quan liêu, độc đoán, thiếu dân chủ để cho xã hội chúng ta thực sự là cách mạng.
Bất mãn là chưa thoả mãn với thực tế, tất nhiên không phải là muốn quyền lợi cá nhân chúng ta đi ngược lại quyền lợi của quần chúng nhân dân. Chúng ta bất mãn với những cái sai lầm, người sai lầm đã làm thiệt hại cho lợi ích của cách mạng.
Còn đối với một số người cho chúng tôi là bất mãn vì địa vị hay vì quyền lợi vật chất thì chúng tôi thấy không cần trả lời những con người thấp hèn ấy.
Hàn Phi Tử
Ngọc bích họ Hoà
Nước Sở có người họ Hoà, được một hòn ngọc ở trong núi đem dâng Lệ Vương. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói “Đá, không phải ngọc”. Vua cho người họ Hoà là nói dối, sai chặt chân trái.
Đến khi vua Vũ Vương nối ngôi, người họ Hoà lại đem ngọc ấy dâng. Vua sai thợ ngọc xem, thợ ngọc nói: “Đá, không phải ngọc”. Vua lại sai cho họ Hoà là nói dối sai chặt nốt chân phải.
Đến khi vua Văn Vương lên ngôi, người họ Hoà ôm hòn ngọc khóc ở chân núi Sở Sơn suốt ba ngày ba đem, chảy máu mắt ra. Vua thấy thế, sai người đến hỏi. Người họ Hoà thưa: “Tôi khóc không phải là thương hai chân tôi bị chặt, chỉ thương về nỗi ngọc mà cho là đá, nói thật mà cho tôi là nói dối!”. Vua bèn sai người xem lại cho rõ kỹ, thì quả nhiên là ngọc thật, mới đặt tên là “Ngọc bích họ Hoà”.
(Cổ học tinh hoa)
*
Thông báo của Phan Khôi
Tôi đi công tác Trung Quốc một thời gian chưa biết bao lâu. Về tờ báo Nhân văn tôi uỷ quyền chủ nhiệm cho ông Trần Duy, thư ký toà soạn, ông Trần Duy sẽ chịu trách nhiệm trong những ngày tôi đi vắng. Tuy vậy, tôi cũng vẫn liên đới chịu trách nhiệm.
Phan Khôi
Đính chính
1. Trong bài thơ “Nói lớn”, trang 4, cuối cột 1:
Thơ tôi đến
trên đầu muôn thế kỷ
Vượt qua vai
các vị cầm quyền
Xin đọc là:
Thơ tôi đến
trên đỉnh muôn thế kỷ
Vượt qua đầu
các vị cầm quyền.
2. Trong bài "Mấy lời chân tình gửi bạn đọc" trang 5, đầu cột 2:
Chúng tôi để ngoài tai...
Xin đọc là: Chúng tôi không tán thành…
Tranh châm biếm của Y Duvẽ Phạm Quỳnh (1937, bên trái) dẫn đầu một đoàn khăn đóng áo dài, khom lưng trước một quan Tây và Ngô Đình Diệm (1956, bên phải), dẫn đầu một đoàn khăn đóng áo dài, khom lưng trước một quan Mỹ, với dòng chú thích:
“Quốc hồn quốc tuý” của Ngô Đình Diệm hay là câu chuyện chiếc áo dài trên trường chính trị
Danh sách những người góp tiền ra báo
Chu Ngọc (Ban sân khấu) 20.000 đ. Trần Quế (Bộ đội giải ngũ) 300.000 đ. Phan Vũ (Ban Sân khấu) 10.000 đ. Nguyễn Sáng (Xưởng hoạ) 50.000 đ. Dương Bích Liên (Xưởng hoạ) 10.000 đ. Lê Anh Tâm (Xưởng phim) 10.000 đ
Thông báo: Tại sao Nhân văn bán 300 đ?
Sở dĩ báo Nhân văn bán cao hơn các báo khác là vì chúng tôi chỉ được CƠ QUAN MẬU DỊCH TRUNG ƯƠNG cung cấp giấy cho đủ để in 2000 số, trong khi chúng tôi in tới 6000 số 2 và 7000 số 3. Chúng tôi đã phải mua thêm giấy ngoài thị trường với giá đắt gấp đôi giá mậu dịch. Do đó giá báo lên cao.
Nếu rồi đây chúng tôi cũng được cung cấp giấy rẻ đầy đủ như các bạn đồng nghiệp thì giá báo sẽ hạ xuống.
N. V.
█
Báo Nhân văn số 4
Báo văn hoá, xã hội - Chủ nhiệm: Phan Khôi - Thư ký toà soạn: Trần Duy - Trụ sở: 43 Tràng Tiền, G.N. (Giây nói 21.17) - Khổ 38 x 55, 6 trang - Số 4, ra ngày 05-11-1956. In tại nhà in Xuân Thu. Mỗi số: 300 đ.
Mục lục
- Nguyễn Hữu Đang - Cần phải chính quy hơn nữa
- Người quan sát - Sự thật về vụ xúc phạm thi sĩ Nguyễn Bính và báo Trăm hoa
- Nhân văn - Hoan nghênh Trung ương Đảng lắng nghe cán bộ và quần chúng
- Trần Công - Nửa tháng Liên hoan phim Liên Xô: Ô-ten-lô, một thành công của điện ảnh
- Nhân văn - Phản đối đế quốc Mỹ đem quân đội xâm nhậm miền Nam Việt Nam
- Trần Duy - Thành thật đấu tranh cho tự do dân chủ (kỳ 1)
- Tranh châm biếm
- Quảng cáo cho Đất mới, Sáng tạo
- Quảng cáo ủng hộ báo Nhân văn
- Thông báo: Tại sao Nhân văn ra chậm và vẫn phải bán 300 đ?
- L.H. - Địa ngục miền Nam
- Tử Phác - Tiếng nói của tâm hồn và trái tim
- Phùng Cung - Con ngựa già của chúa Trịnh (minh hoạ của Bùi Xuân Phái)
- Trần Duy - Nhân xem phòng triển lãm nghệ thuật dân gian Ru-ma-ni, nghệ thuật và thực dụng
- Văn Cao - Những ngày báo hiệu mùa xuân (thơ)
- Bùi Quang Đoài - Chủ nghĩa nhân văn của ông Hoàng Xuân Nhị
- Thanh Châu - Mua hàng mậu dịch (phóng sự)
- Trúc Lâm và H.S. Không phải chuyện cười
Nguyễn Hữu Đang
Cần phải chính quy hơn nữa
Trong bản báo cáo của ông Khơ-rút-sốp trước Đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô có một đoạn nói vắn tắt, gần như lướt qua, mà thực ra rất quan trọng.
Đoạn đó nói về sự quan tâm đặc biệt của Trung ương Đảng đối với vấn đề củng cố nền pháp trị xã hội chủ nghĩa và kết luận:
“Những tổ chức của Đảng, của Nhà nước và các công đoàn phải chú ý với một tinh thần cảnh giác đến việc tôn trọng pháp luật Xô-Viết và tố cáo, vạch mặt bất cứ ai phạm vào nền pháp trị Xô-viết và những biểu hiện phi pháp và độc đoán nhỏ.”
Tại sao sau ba mươi năm kiến thiết chủ nghĩa xã hội với hai lần đặt hiến pháp và nhiều lần chỉnh lý pháp luật cũng như sửa đổi hệ thống và lề lối xét xử của toà án, bây giờ sắp bước vào giai đoạn kiến thiết chủ nghĩa cộng sản, Liên–Xô còn phải đặt vấn đề pháp trị một cách nóng hổi như vậy?
Chính là vì trong bao lâu Stalin đã lạm dụng quyền hành, dung túng bè lũ phản cách mạng Beria, lấy uy thế chính trị mà lũng loạn bộ máy nhà nước, vi phạm nghiêm trọng chế độ pháp trị. Coi thường pháp luật trở thành một tác phong của nhiều cán bộ, của nhiều cấp uỷ Đảng hay cơ quan chính quyền. Biết bao nhiêu công dân lương thiện và đảng viên tốt - kể cả Trung ương uỷ viên của Đảng – đã bị tù đầy, bắn giết oan trong tình trạng đó? Cho nên Đại hội đã phải quan tâm đặc biệt đến việc bảo vệ chế độ pháp trị nó là hiện thân của tinh thần nhân văn, tinh thần dân chủ, tinh thần kỷ luật trong một nhà nước văn minh.
Điều này ở xã hội ta không phải ai cũng công nhận dễ dàng. Vì lòng khinh bỉ của chúng ta đối với pháp lý tư sản lớn quá đến nỗi ở một số đông người nó đã trở thành lòng khinh bỉ pháp lý nói chung. Vì trong cuộc kháng chiến kéo dài và gian khổ, chúng ta đã quen giải quyết mọi công viêc to nhỏ trong không khí gia đình, với tinh thần tuỳ tiện. Chúng ta đã quen dùng cái “linh động” để gỡ cho công việc trôi chảy được mỗi khi vấp phải điều quy định chính xác. Chúng ta đã quen dùng cái “lập trường” để thay cho luật lệ cụ thể.
Và kháng chiến đã thành công, độc lập và dân chủ ít ra đã thực hiện trên một nửa đất nước, nên chúng ta cũng dễ chủ quan, tự mãn tưởng rằng nền nếp cũ vẫn còn có giá trị
Nhầm to. Nếu hiện tượng trên là tất yếu đối với hoàn cảnh chiến tranh du kích thì trái lại, nó không có một lý do tồn tại nào trong hoàn cảnh hoà bình.
Hoà bình lập lại đã hai năm, dù cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất đất nước có phức tạp, gay go thế nào thì cũng không thể coi miền Bắc như ở một hoàn cảnh bất thường để duy trì mãi tình trạng thiếu một nền pháp trị hẳn hoi.
Trong Cải cách Ruộng đất, những việc bắt người, giam người, tra hỏi (dùng nhục hình dã man), xử tù, xử bắn, tịch thu tài sản, hết sức bừa bãi, bậy bạ, cũng như việc bao vây đến làm chết đói những thiếu nhi vô tội trong các gia đình địa chủ (hoặc chính là nông dân mà bị quy sai thành phần), không phải chỉ hoàn toàn do sự lãnh đạo kém cỏi mà còn do thiếu chế độ pháp trị hẳn hoi. Giá các Đoàn Uỷ lúc nào cũng thấy trên đầu họ con mắt dõi theo của thần công lý, giá lúc nào họ cũng thấy văng vẳng bên tai câu nhắc nhở của toà án: "hễ làm trái pháp luật là bị truy tố đấy" thì chắc chắn là họ đã thận trọng hơn và nhiều tai vạ đã tránh được cho nhân dân rồi.
"Giết nhầm sẽ bị kiểm thảo", ý nghĩ ấy có thể là nghiêm chỉnh, nhưng nó mới nhẹ nhàng, thoải mái làm sao!
Sẽ có những người nói: "Sở dĩ nên nông nỗi ấy là vì họ không vững lập trường".
Vững lập trường! Điều đó rất quí nhưng chưa đủ. Không phải cán bộ nào, công dân nào cũng vững lập trường. Và ngày những người thực sự vững lập trường mà không có nền pháp trị tinh vi làm mực thước thì cũng chỉ mới có bảo đảm nhận thức được một cách chung chung về phương hướng và yêu cầu của công việc chứ không có bảo đảm biết làm cho đúng phương pháp, cách thức để đạt tới yêu cầu đó.
Sẽ có những người lo xa: "Đặt ra lắm luật lệ rất dễ đưa đến những bệnh quan liêu, máy móc, hình thức".
Không phải thế. Quan liêu, máy móc, hình thức là những bệnh do thiếu lý luận cách mạng, thiếu đạo đức cách mạng, thiếu nhiệt tình cách mạng. Chẳng biết ít lệ luật sẽ giúp cho việc tránh các bệnh ấy được đến đâu nhưng nhất định không ai có thể chối cãi điều này: ít lệ luật là một điều thuận tiện cho sự lạm quyền, độc đoán.
Nhiều lệ luật cũng vẫn có kẻ lạm quyền, độc đoán được. Những điều đó chỉ dễ thực hiện trong chế độ cũ, luật lệ đã mang sẵn tính chất thực tế thì không biết mà dùng, không có đủ thế lực mà dùng. Còn trong chế độ ta, nhân dân có đủ cả quyền hành, ý thức và lực lượng để dùng luật lệ, bảo vệ luật lệ, thì họ sẽ không để cho những kẻ kia lạm quyền, độc đoán mãi.
Một nền pháp trị đầy đủ sẽ là một bảo đảm vững chắc cho tính chất dân chủ của chế độ ta. Nó sẽ là đường “rày” cho đoàn xe lửa chở dân tộc ta chạy lên chủ nghĩa xã hội thật nhanh mà không trệch.
Do pháp trị thiếu sót mà Cải cách Ruộng đất hỏng to đến thế. Do pháp trị thiếu sót mà quân đội chưa có chế độ binh dịch hợp lý, công an hỏi giấy giá thú đôi vợ chồng ngồi ngắm cảnh trăng lên ở bờ hồ, hộ khẩu rình bên cửa sổ khiến người ta mất ăn, mất ngủ, cán bộ thuế tự tiện vào khám nhà người kinh doanh, ở khu phố có chuyện đuổi nhà lung tung hoặc ép buộc người ở rộng phải nhường lại một phần nhà cho cán bộ hay cơ quan ở. Do pháp trị thiếu sót mà nhiều cơ quan bóc xem thư của nhân viên và một ngành rất quan trọng nọ đòi thông qua những bài báo nói đến mình, làm như một bộ phận của Nhà nước lại có quyền phục hồi chế độ kiểm duyệt mà chính Nhà nước đã bãi bỏ. Do pháp trị thiếu sót, người ta đã làm những việc vu cáo và đe doạ chính trị trắng trợn, ngăn cản việc mua đọc báo Nhân văn, hành hung báo Trăm hoa v.v…
Tưởng đã đến lúc nhân dân phải tích cực bảo vệ chế độ bằng cách tố cáo những hành động phi pháp ở bất cứ trường hợp nào đã có luật lệ rồi.
Về mặt xúc tiến xây dựng ngay một chế độ pháp trị đầy đủ, tinh vi, chúng tôi đề nghị:
1. Thi hành Hiến pháp (hoặc là Hiến pháp 1946 sửa đổi cho thích hợp với hoàn cảnh ngày nay, hoặc là Hiến pháp mới sẽ đặt ra). Trên cơ sở Hiến pháp, Quốc hội sẽ biểu quyết những đạo luật thay các sắc lệch và nhiều văn kiện khác.
2. Quốc hội họp đều, sáu tháng một kỳ. Không có lý do trong hoàn cảnh hoà bình mà công việc của Quốc hội vẫn khoán trắng cho một Ban thường trực gần như không hoạt động gì.
3. Chấn chỉnh ngành tư pháp, chủ yếu là tăng quyền hành thực sự của Bộ tư pháp.
Chúng tôi tin rằng toàn thể các tầng lớp nhân dân đều đồng tình với chúng tôi về ba đề nghị trên. Vì nhân dân thiết tha mong được sống trong một xã hội chính quy hơn nữa.
Để mọi quyền làm ăn, sinh hoạt và tự do dân chủ khỏi bị xâm phạm.
Để được thoải mái góp phần kiến thiết quốc gia.
12-10-56
Người quan sát
Sự thật về vụ xúc phạm thi sĩ Nguyễn Bính và báo Trăm hoa
Bước đầu để thực hiện quyết định của Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Tăng cường bảo đảm quyền tự do của nhân dân và trừng trị kịp thời, đúng mức những hành động vi phạm pháp luật. Chúng tôi đề nghị có những biện pháp thích đáng trừng trị Nguyễn Văn Tố tức Thiết Vũ trong việc hành hung chủ nhiệm báo Trăm hoa. Sở báo chí Trung ương phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc này.
Đúng như lời thi sĩ Nguyễn Bính, chủ nhiệm báo Trăm hoa, đây là một “chuyện đáng tiếc”. Không những “đáng tiếc” mà thực ra đã làm nhiều người công phẫn, nhất là trong giới báo chí, văn nghệ và trí thức ở thủ đô.
Báo Trăm hoa số 2 có phản ánh vụ này nhưng chưa chắc đã đúng sự thực.
Theo lời ông Nguyễn Bính chính thức báo cáo trong hai buổi toạ đàm của đại diện Trung ương Đảng Lao động thì trước khi báo Trăm hoa mới ra số 1, Nguyễn Văn Tố, cán bộ của Sở Báo chí, đến đưa cho ông hai bài đả kích báo Nhân văn rồi yêu cầu đăng và đồng thời cũng mập mờ lấy danh nghĩa cơ quan hứa hẹn cấp giấy rẻ cho báo Trăm hoa thừa ra hai “ram” để in không hết, ông sẽ bán đi với giá thị trường (rất cao) mà tiêu dùng.
Ông Bính không chối từ ngay việc mua đó nhưng cũng không đăng hai bài báo kia lấy cớ vì không hay. Sau đó, khi báo Trăm hoa xin cấp giấy cho số 2 thì bị Sở (...) Trung ương Đảng trong một buổi toạ đàm ngày 20-10.
Thế là chiều hôm thứ hai 21-10, Nguyễn Văn Tố đến trụ sở báo Trăm hoa vẫn lấy danh nghĩa Sở Báo chí mà chất vấn ông Bính về chuyện báo cáo hôm qua rồi dùng những lời thô bỉ, thậm tệ mà lăng mạ ông, lại toan hành hung ông nữa. Ông Bính phải chạy ra ngoài cửa hô hoán lên, hàng phố kéo đến, người qua đường dừng bước, thành một đám đông. Sau đó ông Bính nhờ người đi báo công an, các bạn đồng nghiệp. Hội Văn nghệ và Sở Báo chí. Thế rồi có cuộc thương lượng gữa ông Trần Minh Tước, giám đốc Sở Báo chí và ông Bính. Kết quả chúng ta đã biết: Nguyễn Văn Tố viết một bức thư xin lỗi đăng trên báo Trăm hoa số 2 và đến tự kiểm thảo trong một buổi họp nhân dân khu phố.
Đến đây câu chuyện xoay chiều. Vì những lý do bí ẩn nào chúng tôi không rõ. Chúng tôi chỉ biết bức thư xin lỗi và cuộc kiểm thảo kia đưa ra những sự việc khác hẳn những sự việc mà ông Bính đã chính thức báo cáo trong hai buổi toạ đàm ngày 21-10 và tối 23-10.
Nghĩa là nhất định phải có một sự xuyên tạc: hoặc ông Bính đã báo cáo sai, hoặc bức thư xin lỗi và buổi kiểm thảo kia là bố trí giả tạo. (...) không ai có thể trả lời.
Riêng chúng tôi, chúng tôi hoàn toàn đồng ý với thi sĩ Nguyễn Bính khi ông nhận định về cái tầm quan trọng của vụ này:
"Những hành động và lời nói thiếu lễ độ của anh Tố không những chỉ xâm phạm đến danh dự cá nhân tôi, đến danh dự toà báo Trăm hoa, mà còn tổn thương chung đến danh dự các báo chí, ấy là chưa kể nó đã xâm phạm đến quyền tự do dân chủ nói chung." (Trăm hoa số 2)
Nói khác ra, cách sửa chữa đối với cá nhân ông Bính và báo Trăm hoa đã hợp lý chưa, không đáng cho chúng ta quan tâm nữa nếu chính bản thân ông Bính không yêu cầu gì thêm. Vấn đề còn có thực và sôi nổi không ai có thể giấu đi hoặc dèm pha những người nêu ra bằng những danh từ vu cáo quen thuộc: "thổi phồng", "khoét sâu", "bàn tay địch" v.v…
Người ta biết rằng chủ nhiệm báo Trăm hoa vì đi dự toạ đàm với đại diện Trung ương Đảng, có báo cáo chuyện mua chuộc và trả thù bỉ ổi nên trở về bị lăng mạ và suýt bị hành hung. Việc đó có một ý nghĩa xúc phạm gián tiếp đến cuộc toạ đàm không còn ra thể thống gì nữa.
Người ta lại biết rằng gần đây các giới văn nghệ và trí thức thắc mắc rất nhiều về vấn đề bảo vệ nhân phẩm của văn nghệ sĩ, trí thức và quyền tự do dân chủ, giữa lúc này mà ở ngay sát cạnh Trung ương Đảng và Chính phủ, một cán bộ của Sở Báo chí ngang nhiên láo xược, hung hãn đối với một văn nghệ sĩ lại là chủ nhiệm kiêm chủ bút một tờ báo, thì hãy hỏi y muốn chứng minh điều gì có lợi cho chính sách, cho chế độ?
Người ta biết rằng Hội nghị lần thứ 10 của Trung ương Đảng Lao động vừa mới quyết định "bảo đảm quyền tự do của nhân dân và trừng trị kịp thời, đúng mức những hành động vi phạm pháp luật". Vậy những cơ quan chính trị và tư pháp có trách nhiệm và thẩm quyền đối với vụ này phải có thái độ rõ ràng và biện pháp cụ thể để chứng tỏ với nhân dân cả nước rằng quyết định trên có được thi hành đúng đắn. Nếu không thì những hành động côn đồ, manh động sẽ có thể xảy ra luôn luôn và ngay cái an ninh trật tự thông thường giữa thủ đô cũng bị tổn thương, chưa nói đến tự do dân chủ vội.
Tội Nguyễn Văn Tố như thế mà giải quyết bằng một buổi kiểm thảo chiếu lệ ở khu phố và một bức thư xin lỗi chung chung sơ lược thì chưa phải là xử thích đáng, chỉ càng làm cho giới báo chí, văn nghệ và trí thức công phẫn thêm và không thể có tác dụng giáo dục "răn trước, ngừa sau" hiệu quả.
Kẻ nào nói "làm thế là xong, là ổn thoả rồi" là kẻ nói một câu khôi hài khinh miệt quần chúng.
Trước khi chấm hết bài này, chúng tôi đề nghị ba điều:
1. Thủ tướng Phủ cần điều tra xem vai trò của Sở Báo chí trong vụ này thế nào. Chúng tôi không thể công nhận rằng Sở Báo chí ở ngoài cuộc. (Làm sao cắt nghĩa được việc cấp thừa giấy và rút bớt giấy?)
2. Ông Xuân Thuỷ, Hội trưởng Hội những người viết báo Việt Nam và ông Nguyễn Tuân, Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam không nên tiếp tục làm thinh với vụ này. Quần chúng và anh em báo chí, văn nghệ rất chú ý đến thái độ của các ông.
3. Những bạn hay lo địch lợi dụng để phản tuyên truyền ta hãy lên tiếng đòi nghiêm khắc trừng trị Nguyễn Văn Tố. Vì muốn cho địch hết đường lợi dụng thì không thể dùng một cách yếu ớt là che giấu mà chỉ có một cách đường hoàng là trừng trị nghiêm khắc những kẻ làm bậy để tỏ rõ chế độ ta tốt đẹp không bao giờ dung túng loài sâu mọt.
Nhân văn
Hoan nghênh Trung ương Đảng lắng nghe cán bộ và quần chúng
Ngày 20-10-56, đã bắt đầu cuộc toạ đàm giữa đại diện Ban chấp hành trung ương Đảng Lao động và (...) đủ các ngành (...) điện ảnh. Ban (...) Nhân văn đã đề cử ba đại biểu đến tham dự.
Từ mấy tháng nay cuộc đấu tranh sôi nổi và công khai của anh em văn nghệ sĩ chống những tệ lậu của bè phái lãnh đạo đòi thực sự mở rộng tự do dân chủ đã bị một số người hiểu lầm.
Họ ghán ghép cho anh em những chiếc mũ không tốt: bất mãn, địa vị thậm chí phản động. Cuộc toạ đàm này là một trả lời thích đáng cho những hạng người đó.
Nó chứng tỏ rằng cuộc đấu tranh của anh em căn bản là đúng, rằng anh em không phải là một nhóm người bất mãn đê tiện, mà là những người tha thiết vì dân vì Đảng muốn đóng góp phần xây dựng của mình.
Nó chứng tỏ rằng trong phong trào đấu tranh cho tự do dân chủ chống những tệ lậu của xã hội, anh em văn nghệ đã đi trong hàng ngũ tiên phong không phụ lòng tin cậy của quần chúng và của Đảng. Nó chứng tỏ rằng bản chất của chế độ thực sự là dân chủ.
Nó là cái tát mạnh vào mồm những kẻ tay sai của đế quốc Mỹ đương muốn nhân một vài cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ ở miền Bắc mà vu cáo cho chế độ ta căn bản là không có tự do.
Chúng ta ai cũng biết, cuộc đấu tranh chống những tệ lậu của xã hội thực sự mở rộng dân chủ củng cố và phát triển bản chất của chế độ đã lâu dài và gian khổ nhưng với sự quyết tâm của Trung ương và của chúng ta nhất định chúng ta làm được. Những cản trở nhất định sẽ khắc phục và sẽ vượt qua.
Cuộc toạ đàm mới bắt đầu và còn tiếp tục nhưng chúng ta có đầy đủ cơ sở để đấu tranh và tin tưởng.
Trần Công
Nửa tháng Liên hoan phim Liên Xô: Ô-ten-lô, một thành công của điện ảnh
Những tác phẩm bất hủ của Sét-spia lần lượt đưa lên màn ảnh. Sau Rô-mê-ô và Duy-li-ét, Đêm thứ 12, nhà đạo diễn I-u-kê-vích đã làm rạng rỡ nền điện ảnh Xô-viết trong việc dựng nên phim Ô-ten-lô. Hai mươi năm về trước, ở Mỹ, Óc sơn Oen cũng đã đưa Ô-ten-lô lên màn ảnh.
I-u-kê-vích làm bộ phim đằng đẵng 6 năm 6 tháng. Trước đây ông định mời nhà danh ca chiến sĩ hoà bình người Mỹ da đen và đồng thời cũng là một tài tử màn ảnh Rô-bê-sơn sang Liên Xô đóng vai Ô-ten-lô nhưng chính phủ Mỹ đã cấm đoán không cho Rô-bê-sơn đi. I-u-kê-vích là một đạo diễn đã có danh tiếng quốc tế đứng sau những người thầy điện ảnh Xô-viết và thế giới như Ây-danh-stanh, Pu-đô-kin.
Màn ảnh Hà Nội đã được thưởng thức những phim giá trị của ông như Scăng-đéc Béc, Svec-lốp. Đặc điểm của phim I-u-kê-vích là hình đẹp và mạnh mẽ, cách dựng cảnh công phu, tinh vi. Trong phim Ô-ten-lô, người đạo diễn đã có một thế chủ động cao độ, Ô-ten-lô đã làm rung chuyển cả Can trong mùa thi phim quốc tế năm 1956 và đã xứng đáng được giải thưởng danh dự về dàn cảnh.
Ô-ten-lô vốn là một người châu Phi có nhiều tài năng quân sự. Sau về làm tướng cho triều đình Vê-nê-xi. Ô-ten-lô yêu Đét-sđê-môn, con gái nguyên lão nghị viên Bơ-ra-băng-xi-ô. Nhưng làm thế nào để một vương thần da trắng lại có thể gả con gái mình cho một người da đen được. Ô-ten-lô đã ngầm mang người yêu sang đảo Síp. Nhưng đã bị tên cận thần I-a-gô xúc xiểm ghen tị tìm cách phá hoại. Ô-ten-lô đã nghi ngờ vợ và giết Đét-sđê-môn. Sau khi vỡ lẽ, anh đã tự tử chết.
Dựng một nhân vật chính lại là một người da đen, nêu cao tài năng của một người da đen trong một xã hội triều đình da trắng, Sét-spia đã chống lại thuyết vị chủng từ hồi đó. Và tấn bi kịch này không phải chỉ là việc ghen tuông tầm thường về tình yêu. Ô-ten-lô không phải chỉ tượng trưng cho những con người thường vì bản năng hay bị ghen tuông làm mờ ám, thường dễ biến con tim mình thành gỗ đá vì nghi ngờ. Sét-spia tạo nên tấn bi kịch này với một ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Đây không phải đơn thuần việc một người chồng vị lừa dối mà là tấn bi kịch của một người nhiều nghị lực và thông minh đau xót về những đen bạc của cuộc đời, bị vấp phải những phản ứng đê tiện nhất của một chế độ giả dối, đầy lường gạt, ti tiện, Ô-ten-lô của Sét-spia không phải là một kẻ sát nhân do ghen tuông, mà là một người đi trả thù cho tâm hồn con người bị phản phúc giày vò.
Trung thành với Sét-spia, I-u-kê-vích cùng với những người diễn viên đã cố gắng giữ được một phần lớn nội dung của vở bi kịch. Có một điểm I-u-kê-vích thêm vào mà trong kịch bản không có là đám cưới Ô-ten-lô với Đét-sđê-môn. Và đây cũng là điểm gặp nhau giữa I-u-kê-vích và Óc-sơn Oen. Có lẽ cả nhà dàn cảnh Mỹ, hai người đều thấy cần phải chính thức hoá cuộc tình duyên đó để càng làm thêm đểu cáng những lời vu khống của tên I-a-gô hay những lời nguyền rủa của Bơ-ra-băng-xi-ô.
Trong trí tưởng tưởng của I-u-kê-vích suốt cả thời kỳ thai nghén cho đến lúc thành hình việc phân đoạn dàn cảnh, nhà đạo diễn đã dụng ý như làm một bản nhạc hợp tấu trong đó nổi bật lên 3 hình ảnh và 3 màu sắc. Sáu đề tài đó xen kẽ nhau và gợi lên được ý của nội dung tác phẩm.
Cái thứ nhất là hình ảnh con thuyền. Con thuyền là một tượng trưng rất thơ mộng cho những linh hồn bơ vơ, vướng mắc. Những cánh buồm gió lênh đênh trên sóng đã là những đề tài cho biết bao nhiêu tác phẩm bất hủ. Hình ảnh con thuyền đã ăn sâu vào trí tưởng tượng của nhà đạo diễn mà suốt cả tuổi trẻ đã sống trên bờ biển mơ cánh buồm xây mộng phiêu lưu. Vì thế nên hình ảnh con thuyền đã rập rình ẩn hiện trong cả cuộn phim. Trong phần tự mộ không lời nói mà những hình ảnh về quãng đời quá khứ của Ô-ten-lô dồn dập như sóng theo tiếng nhạc của Kha-sa-tua-ri-ăng, hình ảnh con thuyền đã bắt đầu xuất hiện. Ô-ten-lô đứng trên tàu chỉ huy, Ô-ten-lô thay người cầm lái bị thương, Ô-ten-lô ôm cột buồm bơi thoát tay giặc. Cũng trong con thuyền là nơi Ô-ten-lô trốn tránh lúc bắt đầu nghi ngờ đau xót về tình duyên. Cũng vẫn hình ảnh con thuyền đã mang xác Ô-ten-lô và Đét-sđê-môn đi mãi.
Đề tài thứ hai trong cái tiết tấu của phân cảnh là chiếc khăn tay. Chiếc khăn tay tượng trưng cho trung thành và tình yêu trong đoạn đầu và đã là cái lý do cho chia rẽ ở đoạn sau. Cho nên cái khăn đã được đánh rơi, rồi cho tên phản phúc I-a-gô nhặt được và nghĩ tới cách dùng nó làm kế ly gián... và cuối cùng cái khăn nằm trong tay tuỳ tướng Cá-xi-ô có thể có chủ tâm chiếm đoạt tình yêu của Ô-ten-lô. Nhưng thiết tưởng theo ý đạo diễn thì con mắt vĩnh biệt nhìn cái khăn có nghĩa là đời nhiều giả dối mà chỉ một vật nhỏ bé cũng có thể đóng một vai trò quyết định nên nhiều bi thảm. Như thế thì không thể coi việc dùng cái khăn tay của Sét-spia là tự nhiên chủ nghĩa mà đó là một yếu tố cần thiết rất nhiều chất thơ của những nhà viết kịch lớn hay sử dụng.
Đề tài thứ ba trong Ô-ten-lô là những bàn tay. Bàn tay thường có tác dụng rất lớn trong việc biểu hiệu nhưng thường lại ít được chú ý sử dụng. Trong Ô-ten-lô hai bàn tay đen và trắng của người tướng da đen và Đét-sđê-môn thường xuất hiện cạnh nhau gợi nên mâu thuẫn nội tâm. Cái đau xót của Ô-ten-lô về màu da của mình, cái hờn oán trong bàn tay lên gân run run đó có phải là cái đau xót cái hờn oán của hàng chục triệu người da đen ở Mỹ hiện tại, có phải là cái phần hồn yêu nhân loại bình đẳng, không phân việt màu da chủng tộc cao cả của nhà đại thi hào Sét-spia từ trước đây hơn 3 thế kỷ? Rồi lúc đã ngờ vực, bàn tay người da đen ngập ngừng không dám mạnh dạn tin cẩn sờ vào tay người yêu nhiều như trước nữa. Y-a-gô cũng định cầm tay Ô-ten-lô, hòng giả vờ làm dịu lòng sôi nóng của anh nhưng anh đã rụt tay ra sợ hãi như đụng phải nọc rắn:
"Hãy lùi ra, mày đã đẩy tao cho đau xót giày vò" và cũng đôi bàn tay đó đã bóp cổ chết người yêu…
Đề tài thứ tư, năm, sáu là sự phối hợp giữa 3 màu đỏ rực, đen, trắng.
Thoát tiên là mầu đỏ rực lộng lẫy trong đêm tình yêu đầu ở đảo Síp mà Ô-ten-lô đã dùng áo ngoài khoác cho người Đét-sđê-môn. Cũng chiếc áo đó lúc Ô-ten-lô điên cuồng vì ngờ vực trong hầm tầu đã rải xuống sàn như một vũng máu. Và từ đó màu đỏ không ở Ô-ten-lô nữa mà chuyển qua tấm thảm giải giường của Đét-sđê-môn báo hiệu cái chết bi thảm của nàng.
Màu trắng thỉnh thoảng thêm tý vàng nhạt hay hồng, hay hơi xanh nhạt thường đi theo Đét-sđê-môn. Trong đoạn kết phần tự mộ Ô-ten-lô rực rỡ khoác tấm áo trắng kể đời mình đã làm nổi bật với Ô-ten-lô rách nát lúc bị tù đầy. Và đến đoạn cuối lúc Ô-ten-lô nằm chết cạnh người yêu thì màu trắng xám đã giao cảm với mầu hồng rực.
Màu đen của bộ trang phục Vê-nê-xi trên người Ô-ten-lô đã qua người Đét-sđê-môn trong bữa tiệc ở đảo Síp. Rồi màu đen đó lại quay trở về nếp áo của Ô-ten-lô trong cảnh tuyên thệ trên bờ biển với Y-a-gô.
Và 6 nét chính đó đã lẫn lộn phối hợp tinh vi, tiếng nhạc và lời nói, động tác và ánh sáng, màu sắc và hình ảnh, bộ phim hấp dẫn một cách ly kỳ rùng rợn, gieo vào đầu người xem giận hờn đau xót, hồi hộp lo lắng.
Qua mỗi khía cạnh nhỏ càng nổi bật lên lối đan lưới mâu thuẫn nội tại tài tình của tư tưởng Sét-spia, dưới bàn tay bộ óc thông minh phong phú của I-u-kê-vích. Từ một lối giới thiệu vào đầu rồn rập, những hình ảnh nhảy nối tiếp nhau như những làn sóng. Bôn-đa-súc trong vai Ô-ten-lô đã biểu hiện nghệ thuật rất giỏi, rất nhiều chuyển biến tâm lý tài tình trên nét mặt, bàn tay, bước đi. Có lẽ đạt nhất của Bôn-đa-súc là ở đoạn: lúc Ô-ten-lô giết người yêu rồi vẫn còn tin một phần đúng về mình, đang do dự thì vợ Y-a-gô tố giác âm mưu phá hoại của chồng. Từ một Ô-ten-lô còn chút dũng khí, Bôn-đa-súc đã vụt biến thành trước mắt khán giả một Ô-ten-lô tan nát con tim, tuyệt vọng, một ông già tóc bạc coi cõi đời không còn môt tý niềm tin.
Nói đến sự trung thành với tư tưởng và nhân vật Sét-spia, I-u-kê-vích đã rất cố gắng tôn trọng tác giả. Nói đến dàn cảnh bộ phim, I-u-kê-vích đã tỏ một lao động sáng tạo, một tìm tòi phi thường. Việc dựng nên những khung cảnh kiến trúc ở đảo Síp hồi đó những nhà cửa vườn hoa có đặc tính Hy Lạp nhưng dù sao vẫn trông rõ ảnh hưởng La Mã chứng minh việc nhà đạo diễn đã rất chịu nghiên cứu chọn đúng vị trí lịch sử địa dư của không gian thời gian. Nhiều cảnh rất sâu sắc, rất đẹp như cảnh giơ bàn tay thử thách giữa Ô-ten-lô với Đét-sđê-môn, cảnh Ô-ten-lô "lọt lưới", cảnh tuyên thệ, cảnh đặc tả khuôn mặt người da đen với đôi mắt ngơ ngác kinh hoàng, cảnh Ô-ten-lô ôm xác người yêu. Tiếng nhạc của Kha-sa-tua-ri-ăng nhất là trong phần đầu giới thiệu rất thống thiết nghe khi thành tiếng sóng, khi thành tiếng nấc nức nở, khi giận hờn cao vút lên, khi đau khổ âm thầm lắng xuống.
Nhưng cũng có những mặt bên cạnh tài hoa lỗi lạc đó đã không đạt được lắm. Khác với Óc-sơn Oen, có lẽ trong phần dàn cảnh tạo hình, I-u-kê-vích đã thiếu giản dị thanh thoát là đã cầu kỳ quá trong việc cấu tạo những khung cảnh đồ sộ vĩ đại làm những người xem có cảm giác nặng nề về vật liệu tạo hình quá. Suy nghĩ kỹ thì thấy cách biểu hiện của diễn viên, trình độ có thoát ra được ngoài khung cảnh tạo hình để bảo đảm việc thể hiện nội tâm không hay là vẫn chưa cân đối được. Nhìn kỹ thì trong số diễn viên như Bôn-đa-súc quả có tài nhưng cạnh đó các vai khác như I-a-gô, Đét-sđê-môn, vợ I-a-gô chưa làm chủ được nhân vật hay là còn non yếu. Tuy cái cầu kỳ của I-u-kê-vích ở đây vẫn là cái cầu kỳ gọt rũa của một sự sáng tạo nhiều tìm tòi tỷ mỷ, tinh vi, tài ba nhưng hơi thiếu giản dị thanh thoát, diễn viên lại có một số yếu nên vẫn có phần nặng lệch về bố cảnh. Và đây cũng là cảm giác của tôi đối với một số phim Liên Xô khác như Scăng đéc Béc… Nếu với nghệ thuật tạo hình đồ sộ đó, cộng thêm được cho cân đối tài năng của diễn viên cao hơn thì Ô-ten-lô còn đi xa hơn.
Điểm thứ hai là nhân vật Ô-ten-lô Sét-spia có nhiều dụng ý lớn (trên tôi đã nói) hơn, ông muốn nhiều hơn ở nhân vật của mình ngoài tấn kịch ghen tuông thường tình. Theo ý tôi hiểu tư tưởng và nhân vật Sét-spia trong Ô-ten-lô thì người tướng da đen này cần phải tỏ một phần nào có dũng khí, có cao thượng hơn dù rằng lúc quyết định giết Đét-sđê-môn là tư tưởng trả thù căm hờn những giả dối lường lọc của chế độ đương thời. Vì thế cho nên trừ đoàn tự mộ ra, suốt cả cuốn phim, người ta thấy một Ô-ten-lô hơi thấp kém, nhiều khi tôi muốn được nhìn một cảnh trong đó mắt Ô-ten-lô ngước nhìn trời cao rộng rãi bao la một tý, nhưng đã không có. Theo tôi thì như vậy, I-u-kê-vích đã hoàn toàn trung thành với Sét-spia chưa? I-u-kê-vích đã lột được cái lớn của một tâm hồn dù hành động lại là một cái nhỏ nhen chưa? Cái lớn của tâm hồn đó là lòng hờn oán căm thù cái ty tiện giả dối của chế độ đương thời. Vậy thì thể hiện Ô-ten-lô như thế, theo thiển ý của tôi, là thấp, chưa toát được cái phần người lớn trong Ô-ten-lô của tư tưởng nhân vật Sét-spia.
Có lẽ đẹp nhất đoạn vào đầu giới thiệu quãng đời phiêu lưu và cầu đạo của Ô-ten-lô lồng vào trong đoạn đọc tấu kể chuyện của anh. Nhưng cũng ở đoạn này chúng ta thấy I-u-kê-vích không đạt được phần tiểu sử phiêu lưu của Ô-ten-lô, một câu nói cuối của Ô-ten-lô trong kịch bản chứng minh việc này là cần thiết.
"Nàng đã yêu tôi vì những khó khăn nguy hiểm mà tôi đã trải qua.
Và tôi đã yêu nàng vì nàng cảm thông tôi qua quãng đời đó."
Dụng ý này của Sét-spia trong kịch bản khá rõ. Hơn nữa lại vì lẽ màn ảnh nên những số lời trong kịch bản nói càng được dựng lên bằng nghệ thuật tạo hình. Nhưng I-u-kê-vích đã bỏ qua.
Nhưng nói chung lại, ngoài một số điểm theo ý tôi là thiếu sót kể trên, thì Ô-ten-lô của I-u-kê-vích vẫn là một tác phẩm nghệ thuật lớn đã làm rạng rỡ nghệ thuật điện ảnh Liên Xô ở Can. Dù là cốt truyện Anh (suýt nữa Ô-ten-lô bị gạt ra ngoài “nửa tháng liên hoan phim Liên Xô” vì lẽ này), nhưng Ô-ten-lô đã nằm trong kho tàng văn học Xô-viết và thế giới. Nhân dân thủ đô, và các anh em văn nghệ sĩ vui mừng chào đón Ô-ten-lô, nhiệt liệt hoan nghênh đạo diễn I-u-kê-vích.
28-10-56
Nhân văn
Phản đối đế quốc Mỹ đem quân đội xâm nhậm miền Nam Việt Nam
Ngày 26 tháng 10 vừa qua, Diệm tổ chức ở miền Nam ngày tết “Cộng hoà”. Nhân dịp này, Diệm mời các lực lượng quân sự của các nước thuộc khối quân sự Đông Nam Á như Anh, Pháp, Úc, Phi Luật Tân, Thái Lan, tham gia biểu diễn quân sự cùng quân đội của Diệm.
Mỹ huy động một tuần dương hạm có 2000 thủy thủ, thuộc hạm đội thứ 7 ở Thái Bình Dương, 1 hàng không mẫu hạm và 50 chiếc máy bay chiến đấu.
Úc gửi đến 1 diệt ngư lôi hạm và Anh 4 máy bay phản lực.
Chúng ta hết sức căm phẫn trước thái độ gây hấn của đế quốc Mỹ và một số nước trong khối xâm lược Đông Nam Á đã trắng trợn vi phạm những điều khoản của Hiệp định Genève.
Chúng ta cương quyết vạch mặt Ngô Đình Diệm, tên lừa bịp, “đội lốt đạo đức” mang chiêu bài “bảo vệ hoà bình và thống nhất”, trắng trợn mang tổ quốc bán đứng cho đế quốc Mỹ, định biến Việt Nam thành một bàn đạp quân sự, xô nhân dân vào một vòng chiến tranh.
Dựa vào lực lượng quân sự của phe đế quốc, Diệm định gây cho mình một thanh thế giả tạo, để củng cố địa vị độc tài, để trắng trợn phá hoại hoà bình, thống nhất, độc lập.
Vũ khí là một yếu tố để chiến thắng, nhưng vũ khí hoàn toàn không phải là một yếu tố quyết định sự chiến thắng.
Yếu tố quyết định sự chiến thắng, là con người, và lòng tin chính nghĩa của con người.
Ngô Đình Diệm thấy cái chế độ của hắn bị nhân dân phỉ nhổ, nên tổ chức cái lễ “mượn mầu son phấn lừa dân “đen”.
Nhưng chẳng ai mắc lừa Diệm.
Cái trò đội lốt hùm ấy đã cổ hủ lắm rồi, hơn nữa lốt hùm ấy lại là lốt hùm giấy.
Ai lại không biết, nhất là Diệm, Điện Biên Phủ, Triều Tiên v.v... đều có bàn tay bẩn thỉu và độc ác của đế quốc Mỹ nhúng vào?
Ngô đình Diệm định phô trương thanh thế để „tranh thủ“ miền Bắc chăng?
Diệm lầm. Chúng ta đều biết miền Bắc đương trải qua một cơn thử thách. Nhưng thương tích của Cải cách và chỉnh đốn tổ chức còn nhức nhối trên miền Bắc; nhưng chúng ta đương băng bó; sai lầm đang được sửa chữa, phong trào đấu tranh đòi mở rộng dân chủ đang trên thế mạnh, nhằm phát triển và củng cố bản chất tốt của chế độ, chống những tệ buôn lậu trong hàng ngũ cách mạng, khai thác triệt để khả năng của quần chúng để xây dựng đất nước.
Chưa bao giờ miền Bắc nhiều đau thương, nhưng lại nhiều triển vọng như bây giờ.
Thái độ xảo quyệt, lừa bịp của Diệm càng khơi dậy trong chúng ta lòng thiết tha thương yêu, bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ, nó càng thcs đẩy ý chí quyết tâm đả phá nhữung tệ lậu trong xã hội, mở rộng dân chủ, phê bình tự phê bình quyết tâm sửa chữa những sai lầm. Dân tộc ta đã dũng cảm trong những ngày chiến đấu vô cùng đau thương và gian khổ để bảo vệ Tổ quốc, dân tộc ta nhất định sẽ dũng cảm trong cuộc đấu tranh đau thương và gian khổ cho Hoà bình, Thống nhất. Hôm qua chúng ta đã anh hùng, hôm nay, ngày mai chúng ta cũng vẫn anh hùng.
Những thắng lợi ngày hôm qua bảo đảm cho những thắng lợi ngày hôm nay và ngày mai.
Không một vũ khí nào, không sức mạnh nào thắng nổi những con người như chúng ta, thắng nổi ý chí sắt đá của chúng ta bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hoà bình, bảo vệ tự do và dân chủ.
Trần Duy
Thành thật đấu tranh cho tự do dân chủ(kỳ 1)
Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam có nhận định ở miền Bắc chúng ta chưa thực hiện đầy đủ các quyền tự do dân chủ của nhân dân và đã thảo luận những biện pháp bổ khuyết cần thiết để đề nghị với Chính phủ và Quốc hội.
Chúng ta hoan nghênh những nhận định ấy, và hy vọng những biện pháp bổ khuyết cần thiết trên sẽ mang lại cho báo chí văn nghệ đời sống miền Bắc một luồng gió mới... luồng gió tự do dân chủ (...). Vi phạm tự do dân chủ nhất định không phải là một hành động thích hợp với chế độ.
Việc vi phạm ấy từ lâu vẫn có, tất nhiên không phải vì chính sách của Đảng và Chính phủ, nhưng dù sao Đảng và Chính phủ cũng chịu trách nhiệm trong việc thiếu sót và hạn chế tự do dân chủ ấy.
Chúng ta đòi quyền tự do dân chủ, có nghĩa là chúng ta đấu tranh để được làm tai mắt cho Đảng và Chính phủ, giúp Đảng và Chính phủ sửa chữa khuyết điểm sai lầm để bảo vệ và xây dựng chế độ.
Báo Nhân văn đấu tranh cho tự do dân chủ, cũng không ngoài ý muốn nào khác là tự nguyện làm một tên lính tiên phong cùng Đảng và nhân dân chiến đấu cho một mục đích chung.
Nhưng từ ngày Nhân văn ra đời cho đến nay, nó đã phải trải qua những thử thách, nó bị làm khó dễ nếu không nói là phá hoại.
Những hành động phá hoại ấy tuy riêng lẻ, không có một chủ trương nào dứt khoát, nhưng nó thành hệ thống, liên lạc, chứng tỏ rằng nó có chịu một sự chỉ huy.
Những sự việc ấy đều đã xẩy ra trước bản thông cáo của Hội nghị lần thứ 10. Những sai lầm ấy cần được sửa chữa. Hôm nay, chúng tôi (...) những việc làm không tốt đẹp ấy, để thanh toán dứt khoát, hy vọng thành thật tìm hiểu nhau hơn trong việc đấu tranh mở rộng tự do dân chủ.
Đồng chí Nguyễn Duy Trinh thay mặt Trung ương trong một cuộc hội nghị báo chí có nói: “Bản chất chế độ ta là tuyệt đối tốt. Những sai lầm tạm thời nhất định chúng ta khắc phục được”. Lời tuyên bố của đồng chí Trinh nói lên ý chí kiến quyết của Đảng muốn chấm dứt tình trạng sai lầm trước, sai lầm về nhiều mặt, trong đó có sai lầm nghiệm trọng về (...), một vấn đề mà Nhân văn đang đề cập đến và đấu tranh kiên quyết để được thực hiện.
Đấu tranh cho tự do dân chủ là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ, vì nó là một cuộc tấn công quyết liệt vào những tệ lậu hủ bại của xã hội.
Nó sẽ bị những phần tử tệ lậu và hủ bại hiện đương còn quyền hành và thế lực cản trở, xuyên tạc, phá hoại có khi cả bằng những phương pháp đen tối, độc ác. Đấu tranh cho tự do dân chủ không bao giờ chỉ là một công việc có tính chất thuần tuý hành chính. Nó phải có một tính chất quần chúng rộng rãi. Quần chúng phải là “Bao công” có quyền thực sự kiểm soát mọi công việc của Nhà nước, của cán bộ. Chúng ta cần phải tích cực ủng hộ và giúp đỡ Trung ương Đảng để đẩy mạnh việc mở rộng tự do dân chủ đề ra trong nghị quyết. Vì thế hôm nay, Nhân văn sẽ cùng các bạn kiểm điểm lại một số việc đã qua, để cùng nhau có một nhận định và cùng nhau quyết tâm hơn bước vào xây dựng giai đoạn mới.
Báo Nhân văn ra đời trong những hoàn cảnh đặc biệt. Động cơ nào đã thúc đẩy anh em văn nghệ và trí thức ra tờ báo Nhân văn? Nó được ra đời như thế nào? Và nó đã bị đối xử như thế nào?
Trong những ngày Hội Văn nghệ tổ chức lớp học tập lý luận, đa số anh em xem lớp học này chỉ là một lớp học chiếu lệ, nêu lên thắc mắc để được giải đáp, đánh thông, uốn nắn lại một vài sai lệch về sinh hoạt và lập trường để rồi đâu lại vào đấy, lãnh đạo vẫn lại bước theo những vệt lằn cũ của con đuờng nó đã từng đi trong mười năm nay. Vì thế cho nên mở đầu lớp học, đa số anh em tỏ ra thái độ tiêu cực, không phát biểu ý kiến... thái độ (...) Nhưng trong thời gian (...) lúc đề cập đến vấn đề (...) đường lối văn nghệ (....) thấy rõ nhiệm vụ đấu tranh cùng nhân dân củng cố chế độ và Tổ quốc.
Tiêu cực, làm ngơ, thở dài bi quan trong lúc này là một tội lớn đối với lịch sử đối với sự nghiệp đấu tranh của dân tộc. Sống trong một xã hội mà sự tự do đã chính thức được ghi lên giấy trắng mực đen trong Tuyên ngôn Độc lập, trên Hiến pháp, sao tự do vẫn còn bị vi phạm trắng trợn ở trên địa hạt tư tưởng, trí thức, và cả trên sinh mệnh xương thịt của con người?
Chúng ta tin ở đường lối chủ nghĩa Mác-Lênin, tuyệt đối tin ở chủ nghĩa cộng sản, một chủ nghĩa đẹp nhất của nhân loại, trẻ nhất của lịch sử con người, mới nhất, tại sao chúng ta vẫn còn già nua, còm cõi, sống còng lưng dưới những nặng nề của công thức, tại sao vẫn còn nhai đi nhai lại gò gập cuộc sống theo những nếp đời đã cũ mọt. Ai ngăn cản cuộc đời trỗi dậy? Vì Đảng ư? Vì cán bộ ư? Chính sách đúng hay sai?
Những yêu cầu chính đáng cần được đưa ra ánh sáng để Đảng thấy rõ, để quần chúng tham gia giải quyết.
Do đó anh em chủ trương ra một tờ báo.
Báo Nhân văn ra đời tự nguyện làm một trong những tên lính tiền phong, tích cực cùng nhân dân và Đảng, chiến đấu chống những sai lầm lệch lạc, những hủ bại trong tác phong lãnh đạo đã vi phạm đến những nguyên tắc căn bản xây dựng Đảng, xây dựng chế độ.
Cho nên khi anh em lấy tên cho tờ báo là Nhân văn là do một lòng nhiệt tình đối với chủ nghĩa đối với con người của chế độ. Vì chúng ta cùng thấy rằng không còn gì cao quý hơn và đẹp đẽ hơn là thực hiện cho kỳ được chủ nghĩa nhân văn trong đời sống con người.
Anh em nghèo, vốn không có, góp tiền với nhau để ra tờ báo. Chật vật lắm tờ báo mới được ra đời. Vừa ra đời thì những danh từ “phản ứng giai cấp”, “tư sản lợi dụng”, “tiếng nói của tư sản”, “Đế quốc bắc cầu” đã chụp lên đầu anh em những chiếc mũ nguy hại.
Trong thời gian tiến hành in báo Nhân văn, vụ điển hình về phá hoại là vụ Hoàng Đạo.
Hoàng Đạo là ai? Theo lời y tự giới thiệu với một số bạn, thì y trước là một cán bộ công an, hiện nay là cán bộ công nghiệp, làm giám đốc một xí nghiệp lớn được đặc phái phụ trách theo dõi và chống phá Nhân văn.
(Kỳ sau đăng tiếp)
Quảng cáo
Đón đọc loại sách Đất mới, tập I: “Chuyện sinh viên”, Minh Đức xuất bản
Tìm đọc Sáng tạo, báo điện ảnh và sân khấu
Tranh châm biếmvẽ ba người giống hệt nhau, tay đều cầm phích nước và vải hoa, với dòng ghi: "Đây không phải anh em đẻ sinh ba. Mà chỉ là ba người cùng đi lĩnh séc vào một ngày hết hạn séc và Mậu dịch cũng cạn hàng".
Quảng cáo
Để ủng hộ báo Nhân văn
Để ủng hộ báo Nhân văn một cách thiết thực, các bạn hãy:
1. Đến trụ sở hoặc viết thư có kèm bưu phiếu mua báo dài hạn (từ 10 số trở lên, mỗi số 300 đ)
2. Chuyển báo cho những người thân, người quen đọc, đồng thời cổ động họ mua báo dài hạn.
Thông báo
Tại sao Nhân văn ra chậm và vẫn phải bán 300 đ?
Kỳ này Nhân văn in 12.000 số mà vẫn chỉ được Sở Báo chí và Mậu dịch Trung ương cung cấp giấy đủ in 2.000 số tuy chúng tôi đã nhiều lần xin thêm.
Vì lẽ trên, chúng tôi phải tìm mua giấy ngoài thị trường rất khó khăn, nên báo ra chậm và vẫn phải bán 300 đ.
Đính chính
Câu cuối cùng của bài “Nỗ lực phát triển tự do dân chủ”, Nhân văn số 3 yêu cầu đọc như sau:
“Chúng ta sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lenin đã gột rửa những nét xấu của đời Sta-lin, với nội dung chân chính xây dựng trên kinh nghiệm kiến thiết chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trên thế giới, trong ấy nhiệm vụ của vô sản chuyên chính là phát triển tự do cá nhân.”
(Những chữ in ngả là những chữ thiếu trong bản in trước).
L. H.
Địa ngục miền Nam
Khách đi đường từ Sài Gòn đến Tây Ninh, không thể không chú ý đến tấm bảng lớn, phủ một nước sơn hào nhoáng, với dòng chữ to tướng: “Nhà nuôi trẻ mồ côi”. Chà! Nhân đức quá. Các bạn cứ đi thẳng về phía sau tấm bảng ấy vào một con đường nhỏ sẽ thấy một dãy nhà ẩm thấp, mái lợp tôn. Đấy là cái cô nhi viện Chí Hoà mà đài phát thanh Sài Gòn đã không ngớt lời ca tụng là nơi thiên đường hạ giới.
Tôi đến cô nhi viện Chí Hoà vào một chiều mưa rả rích…
Một em bé độ 2 tuổi đưa bàn tay nhỏ nhắn cho tôi và hai đứa khác bắt chước bạn cũng đưa theo. Đó là ba đứa trẻ lớn nhất trong cô nhi viện. Trong ba bàn tay bé tí ấy có một bàn tay nhầy nhụa vì ghẻ lở gớm ghiếc, nhưng tôi vẫn nắm lấy cho vui một tâm hồn, dẫu là một tâm hồn còn khờ dại…
Những tiếng khóc ré lên, âm cao lẫn thấp như hoà một bản nhạc tức tưởi đón chào người khách lạ. Tôi khoát mùng nhìn tận mặt những trẻ nhỏ.
Chúng nằm chung nhau, cứ ba em một giường, bề dài độ một thước và rộng không hơn năm tấc.
Tôi đã trông thấy những làn da xám ngắt như màu trời lạnh, những thân hình gầy còm khô héo như cây tàn giữa mùa đông, những đôi mắt lờ đờ như cạn nguồn sinh lực…
Hai phần ba trong số chúng đều nằm thiêm thiếp. Tôi có cảm tưởng đen tối rằng các em xấu số ấy khó mà lớn khôn được với đời!
Các dì phước cho biết áo quần các em không đủ mặc, tã của các em cũng không đủ thay đổi nên đành phải chịu ở bẩn. Giường màn không đủ nên các em phải nằm chung ba em vào một chỗ.
Nguy hiểm nhất là những khi trái gió trở giời, có em ốm đau, sài đẹn, lẽ ra phải rời các em bệnh hoạn đi nơi khác, nhưng chỗ đâu mà dời bây giờ? Do đó bệnh một em thì lây thành năm, bảy, có khi lại một đôi mươi. Một em chết thì lại lôi kéo nhiều em khác. Có hôm sáu, bảy em cùng rủ nhau về thiên đàng một lượt! Từ ngày ra đời (1-12-1955) đến nay cô nhi viện Chí Hoà đã tiếp nhận 270 em nhưng đến nay đã có 189 em về nơi cõi Chúa!
Những em còn lại, lúc này nuôi nấng rất khó khăn. Vì khan sữa nên có ngày các em phải uống nước cháo pha đường. Lại gặp các năm khan đường, các em đành phải ăn nhạt!
… Trời vẫn còn mưa lác đác, tôi từ biệt cô nhi viện quay về mà trí óc vẫn còn nhớ đến những làn da xám ngắt như mầu trời mưa lạnh, những thân hình gầy còm khô héo như cây tàn giữa mùa đông, những đôi mắt lờ đờ như cạn nguồn sinh lực… tôi vẫn còn cảm tưởng đen tối rằng các em xấy số ấy khó mà lớn khôn được với đời!
Và không phải chỉ ở cô nhi viện Chí Hoà mà còn nhiều cô nhi viện khác rải rác khắp đô thành như ở Chợ Lớn, Hoà Hưng, Gò Vấp, Phú Nhuận, Chợ Thái Bình v.v… Các nơi đều đang cùng hô vang lên tiếng kêu “cấp cứu”!
Trên đây mới chỉ là một phần sự thật của những cái gọi là “thiên đường” và “công trình nhân tạo” mà Ngô Đình Diệm đang cố công sơn phết lên cái chế độ “cộng hoà” kiểu Mỹ của hắn ở miền Nam.
Tử Phác
Tiếng nói của tâm hồn và trái tim
Các nhạc sĩ Hung-ga-ri đến thăm đất nước chúng ta trong một thời gian ngắn và chỉ tới có ít người với một dàn nhạc “nho nhỏ”.
Ngoài đồng chí phụ trách chính trị, đoàn chỉ có 1 violon chính, kiêm chỉ huy dàn nhạc, 2 violon phụ, 1 clarinette, 1 cymbalum, 1 violon alto và 1 contre basse. Ngoài ra còn có một nghệ sĩ hát giọng nam trầm và một nữ nghệ sĩ hát giọng nữ cao. Từ ngày hoà bình trở lại đất nước chúng ta, nhiều đoàn nghệ thuật đã đến thăm chúng ta, nhưng lần này là lần đầu tiên chúng ta đón tiếp một đoàn nghệ sĩ nhỏ về số người nhưng rất không nhỏ về trình độ nghệ thuật, lần đầu tiên chúng ta được thưởng thức một chương trình toàn ca nhạc mà vẫn thấy mình bị hấp dẫn suốt từ đầu đến cuối cuộc biểu diễn.
Chân thành cám ơn các bạn nhạc sĩ Hung-ga-ri, nghệ sĩ đầy nhiệt tình và hoàn toàn đáng yêu từ con người đến nghệ thuật, đã giới thiệu với chúng ta một số hình thức độc đáo của nghệ thuật âm nhạc dân tộc Hung-ga-ri và một vài đặc điểm của tâm hồn con người Hung-ga-ri.
Buổi gặp gỡ đầu tiên giữa giới nhạc sĩ ta với các bạn nhạc sĩ Hung-ga-ri. Nước đá, quạt trần cũng không đủ cho các bạn chúng ta bớt đỏ mặt và thở dốc vì cái tiết trời không dung người của đất nước chúng ta. Bài diễn văn long trọng và dai dẳng của nhạc sĩ đại diện của ngành Nhạc, Hội Văn nghệ như về hùa với cái nóng bức. Nghệ sĩ hát giọng nam trầm thỉnh thoảng lại uồm uồm thử giọng xem có bị hao tổn gì không. Nhạc trưởng Sandor Jaroka đứng lên đáp từ: “Chúng tôi xin nói với các bạn bằng thứ tiếng nói của tâm hồn và trái tim chúng tôi, chắc rằng các bạn sẽ hiểu chúng tôi. Chúng tôi cũng mong được nghe các bạn nói bằng thứ tiếng nói của tầm hồn và trái tim của các bạn, chúng tôi tin rằng chúng tôi sẽ hiểu các bạn ngay”.
Nói rồi làm ngay. Cuộc biểu diễn thân mật “trong nhà” bắt đầu luôn. Cây violon cua Sandor Jaroka làm mưa làm gió trong dàn nhạc, trong không gian và trong lòng mỗi người chúng ta. Những công thức của thủ tục ngoại giao không còn nữa, những ám ảnh về thời tiết không còn nữa, những cách bức trong ngôn ngữ không còn nữa. Sandor Jaroka lim dim đôi mắt, áp hẳn má xuống cây đàn, nỉ non giai điệu của bài “Poème hongros”. Minh Đỗ, sau phút bỡ ngỡ đầu tiên, đã nhận ra giai điệu quen thuộc với mình, mấp máy môi muốn hát. Cây đàn của Sandor Jaroka đã kề bên, đỡ giọng cho Minh Đỗ nói thay cho chúng ta những lời nói “của tâm hồn và trái tim” không cần phải phiên dịch.
Nghe ban nhạc Sandor Jaroka, anh em nhạc sĩ ta cũng như các bạn yêu nhạc đều thấy say mê, khâm phục. Có người nói: dân ca Hung-ga-ri đã phát triển cao quá rồi! Có người nói: biết âm nhạc Di-gan đã lâu mà nay mới được nghe những nhạc sĩ Di-gan chính cống chơi! Tôi muốn nói một chút về âm nhạc dân tộc Hung-ga-ri, gọi là mấy lời cám ơn và tiễn đưa những nhạc sĩ Hung-ga-ri đầy nhiệt tình và hoàn toàn đáng yêu từ con người đến nghệ thuật, vừa từ biệt chúng ta xong.
Âm nhạc Hung-ga-ri là một nền âm nhạc rất phát triển, đã qua thời kỳ cổ điển với Erkel và Liszt vào thế kỷ 19, thời kỳ cận đại với Bartok và Kodaly vào đầu thế kỷ 20, tạo thành trường phái âm nhạc Hung-ga-ri nổi tiếng khắp thế giới và đóng góp không nhỏ vào kho tàng âm nhạc chung của nhân loại.
Hai nền âm nhạc cổ điển và cận đại đó bắt nguồn một cách có ý thức và có hệ thống từ âm nhạc dân tộc của Hung-ga-ri. Ban nhạc Sandor Jaroka đã giới thiệu với chúng ta đặc điểm của nền âm nhạc dân tộc Hung-ga-ri. Âm nhạc dân tộc Hung-ga-ri có hai luồng:
1. Luồng dân ca Hung-ga-ri, có tính cách Á đông; dùng gam 5 cung (son, si b, đô, rê, fa); giai điệu thường đi từ cao xuống trầm; kiến trúc minh bạch, vừa khoẻ, vừa buồn buồn; diễn tả tâm tình của người nông dân Hung-ga-ri quen sống ở những vùng đồng cỏ khô bát ngát với cuộc đời du mục, lang thang vừa buồn tẻ nhưng cũng đầy phiêu lưu, hiếu động; tâm tình đó biểu hiện hiện ra trong âm nhạc thành những tốc độ nhanh và chậm, trầm mặc và bồng bột xen kẽ, nối tiếp nhau.
2. Luồng nhạc Di–gan (Tzigane)
Người Di-gan là một giống người sống giang hồ, không có tổ quốc và không có quê hương nhất định. Họ sống rải rác khắp châu Âu; ở Đức, ở Ý, ở Anh, ở Y-pha-nho,ở Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, Ru-ma-ni… đều có người Di-gan ở. Người Di-gan bắt đầu với vùng đất Hung-ga-ri vào khoảng thế kỷ 15 và tới thế kỷ 18 thì đặc điểm âm nhạc Di-gan đã rất phổ biến trong nhân dân Hung-ga-ri. Đặc điểm đó là: đoạn đầu thường chậm, đoạn sau mỗi lúc một nhanh thêm, hay dùng quãng 4 tăng, âm giai giản dị chứ không hay chuyển, nhạc đề láy lại chứ ít phát triển xa, sính dùng những nét rải và những nét tô điểm đặc biệt theo kiểu riêng của âm nhạc Di-gan, lấy violon làm nhạc cụ chủ yếu, có đàn trầm và cymbalum phụ hoạ.
Trong lịch sử âm nhạc không thấy nói đến những nhà soạn nhạc Di-gan. Nhạc sĩ Di-gan thường chỉ là những nhạc sĩ biểu diễn kỳ tài. Nhưng nghệ thuật Di-ga lại có đặc điểm vừa lãng mạn lại vừa say đắm, vừa lả lướt lại vừa sôi nổi, vừa trầm lặng lại vừa ồn ã. Nhạc sĩ Di-gan lại có biệt tài tuỳ hứng sáng tạo. Cho nên sống ở đâu, nhạc sĩ Di-gan cũng sử dụng dân ca ở đấy mà Di-gan hoá đi, cũng từ chỗ đệm đàn cho dân ca bài dân vũ của địa phương mà dần dần phát triển dân ca thành âm nhạc thực sự. Đặc điểm của âm nhạc Di-gan xuất hiện ở từng bộ phận của âm nhạc dân tộc nhiều nước châu Âu chứ không đi tới hình thành một nền âm nhạc Di-gan riêng biệt.
Riêng ở hoàn cảnh Hung-ga-ri, đặc điểm hay dùng quãng 4 tăng của âm nhạc Di-gan đã thâm nhập vào đặc điểm 4 cung của âm nhạc dân tộc Hung-ga-ri mà tạo thành một thứ gam Di-gan dùng độ 4 hoá. Vào thế kỷ mười tám, nhạc sĩ Di-gan Bihari ở Hung-ga-ri đã tạo ra một loại nhạc vũ rất đặc biệt, nét nhạc say đắm, nồng nàn; nhịp điệu rồn rập như gót giầy người kỵ mã lên đường, gọi là lối nhảy Verbunkoche. Bihari nổi tiếng khắp thế giới và hình thức vũ nhạc Verbunkoche không những được toàn dân Hung-ga-ri hoan nghênh mà các nhạc sĩ thiên tài thời đó ở Âu châu như Liszt, Haydn, Beethoven, Schubert cũng đều ca tụng.
Erkel và Liszt, hai nhạc sĩ cổ điển của âm nhạc Hung-ga-ri vào thế kỷ 19, đã khai thác đặc điểm của vũ nhạc Verbunkoche đó. Erkel soạn nhạc kịch và âm nhạc đại hợp tấu đã kết hợp với đặc điểm của nghệ thuật Di-gan với kỹ thuật âm nhạc mới. Liszt soạn 20 bản nhạc Rhapsodies hongroises cũng đã sử dụng các giai điệu của dân ca Hung-ga-ri đã Di-gan hoá rồi và đem kết hợp với kỹ thuật mới của dương cầm.
Nhưng tới thế kỷ 20, hai nhạc sĩ cận đại của âm nhạc Hung-ga-ri là Bartok và Kodaly lại tìm nguồn sáng tạo theo một quan điệm khác hẳn. Quan niệm này cho rằng một khi dân ca đã được nghệ thuật Di-gan tô điểm cho rồi thì dân ca không còn là dân ca nữa, mà đã trở thành một thứ âm nhạc phát triển tới một trình độ nhất định nào đó rồi. Âm nhạc mới không thể dựa vào đấy được mà phải đi sâu trở về với nguồn gốc trong trẻo của mọi thứ âm nhạc: tức là dân ca nguyên thủy của nông dân Hung-ga-ri không bị đặc điểm gì hạn chế, không bị công thức gì gò bó, dân ca nguyên thuỷ mới chứa đựng nguyên chất tinh thần âm nhạc dân tộc làm chất liệu tinh khiết cho nhà soạn nhạc xây dựng tác phẩm mới.
Tôi thiết tưởng, nhân dịp các bạn nhạc sĩ Hung-ga-ri sang thăm và biểu diễn ở nước ta, việc ôn lại mấy nét lớn về lịch sử âm nhạc Hung-ga-ri (tuy sơ lược những cốt đừng mắc vào công thức ngoại giao chiếu lệ hoặc chỉ ca tụng chung chung về nghệ thuật) nhất định sẽ làm giới âm nhạc chúng ta học được kinh nghiệm đó, nhìn lại vốn cũ của âm nhạc dân tộc ta một cách có phê phán và sáng tạo để góp phần xây dựng nền âm nhạc dân tộc hiện đại một cách có ý thức, có khuynh hướng, có trường môn nhất định.
Sandor Jaroka và các nhạc sĩ Hung-ga-ri đã xa chúng ta rồi. Khi viết những dòng này, tôi còn như nghe thấy các bạn tôi bảo qua tiếng đàn, giọng hát và tác phong của các bạn rằng: người nghệ sĩ hãy làm công việc nghệ thuật đi, hãy đem “tâm hồn và trái tim” ra công hiến cho nhân dân, đừng có rắp tâm đi trên con đường nghệ thuật bằng những biện pháp nào khác!
10-1956
Con ngựa già của chúa Trịnh
(Minh hoạ của Bùi Xuân Phái)
Việc giới thiệu, giúp đỡ, tạo điều kiện cho anh em văn nghệ mới vào nghề là một việc rất quan trọng.
Việc đó từ trước đến nay Hội Văn nghệ làm không đuợc đầy đủ. Để đẩy mạnh phong trào bồi dưỡng nhà văn trẻ, chúng tôi mạnh bạo giới thiệu những sáng tác của anh em, dù kỹ thuật có thiếu sót, nhưng đã tỏ ra có nhiều cố gắng suy nghĩ tìm tòi.
Phương Lộ là một làng nhỏ hẻo lánh, nằm lọt trong một thung lũng phía Nam chân núi Tản, cách chợ Đan Lâm chừng bẩy dặm. Từ Đan Lâm vào Phương Lộ, trên con đường đất mòn, ngoằn ngoèo men theo dòng suối phải qua một chiếc cầu bằng đá vắt ngang suối, bên cạnh một ngôi đền nhỏ. Trong làng có lão già họ Nông, hai đời chuyên nghề buôn ngựa. Ông cụ sinh ra lão ngày trước là mã phu của triều Trần; khi mãn lính, trở về làng làm nghề buôn ngựa. Năm mười bốn tuổi, lão đã theo cha ra chợ Đan Lâm học nghề. Lớn lên, lão đã nổi tiếng khắp vùng về môn xem tướng ngựa.
Lão Nông có con ngựa trắng, mình kim, lông trắng như bông, lại lấp lánh như có nạm kim cương, nên lão đặt tên nó là Kim Bông. Lão thường khoe con ngựa này lão tìm mua được từ lúc nó chưa phát nha ở tận miền Nước Hai. Lão đã từng đi nhiều nơi mà chưa thấy có con nào tướng phách toàn mỹ như nó; có sức vượt hàng nghìn dặm với cái thế "cao đầu phóng vĩ" của nòi ngựa chiến.
Từ khi con Kim Bông bắc yên, ngày ngày lão cưỡi nó đi các nơi để buôn ngựa. Hàng năm những cuộc đua ngựa miền này, không cuộc đua nào vắng lão. Không cuộc đua nào con Kim Bông không đoạt giải nhất. Từ đó tiếng con ngựa hay, mỗi ngày được truyền rộng ra khắp nơi và lọt đến tai Chúa Trịnh.
Thuở ấy Chúa Trịnh đang cần tuyển mộ một đoàn kỵ binh để bình định đất nước, nên liền ủy một viên quan hầu cận, tìm đến tận nơi hỏi mua.
Lão Nông tuy luyến tiếc con Kim Bông, nhưng nghĩ đến cái tài của nó lão sẵn sàng trao lại cho viên quan mà rằng: "Con ngựa của bần dân thuộc loại quý mã, là vật, nhưng nó hiểu tiếng người. Bấy lâu nay nó sống với bần dân ở nơi sơn lâm hẻo lánh này, ăn cỏ núi, uống nước suối, tài nó có mà không được dùng, thật lòng bần dân cũng tiếc cho đời nó lắm! Nay chúa công lại cho vời nó về chốn triều đình để dùng nó xông pha chiến trận, bần dân cũng được hả dạ vì đã làm vừa ý con quý mã và cũng bõ công nuôi nấng tập luyện". Lão Nông miệng nói tay trao cương cho viên quan. Con Kim Bông cũng dỏng hai tai gật gật cái đầu như biết mình sắp được từ giã cảnh sơn lâm hiu quạnh, để về vùng vẫy chốn kinh thành.
Trên đường về, viên quan hết lời khen ngợi con quý mã; Kim Bông phi như gió, giả lại đằng sau những đồi núi, cây cỏ hỗn độn của vùng Sơn Tây. Chỉ trong nửa ngày đã về đến Thăng Long.
Viên quan vào tâu với Chúa Trịnh, hắn tả lại tướng phách cùng nước bay, nước kiệu của con ngựa. Chúa Trịnh lấy làm toại nguyện, và truyền cho các tướng tá chọn ngày mở hội đua để kén ngựa chiến.
Một buổi sáng, trên các ngả đường, nhân dân các vùng lân cận nghe tin, lũ lượt đổ về xem như nước chảy. Hàng nghìn ngựa tốt từ các nơi đem về được sắp hàng tề chỉnh bên cạnh những kỵ binh nai nịt gọn gàng. Con Kim Bông ngơ ngác trước quang cảnh mới lạ, lòng nó rộn ràng, mắt nó đăm đăm nhìn thẳng phía cuối đua trường như để dương oai với đồng loại, nó nín hơi, tóp bụng, cất tiếng hí dài, lanh lảnh nghe sởn óc. Người kỵ binh đứng bên cạnh, bỗng né sang một bên, lao đao tưởng ngã. Bọn ngựa trố mắt nhìn Kim Bông và cũng cất tiếng hí theo.
Sau ba hồi trống lệnh, các kỵ binh lên yên, ra roi, bắt đầu rời vạch. Đoàn ngựa lồng lên trong bụi lốc mịt mù, những miếng đất bắn ra tứ phía như mưa rào, nhân dân reo hò vang dậy. Chỉ trong chớp mắt, con Kim Bông đã vượt lên hàng đầu, vừa hí, vượt lên, chân trước khoăm lại như móc sắt, đuôi bay như giải phướn, tưởng như chân nó không hề chạm đất. Ở phía xa người ta nhìn nó chỉ còn thấy một bóng trắng lấp lánh, oằn lên, oằn xuống như một con rồng trắng uốn khúc. Nó bay tới phía nào là tiếng reo hò phía ấy vang lên không ngớt. Hàng loạt ngựa thấy sức mình không sánh kịp con Kim Bông, bỏ dở cuộc đua, đứng dừng cả lại, hí hí nhìn theo cái bóng trắng nhỏ dần trong bụi nắng loà của kinh thành. Khi dứt hồi trống, con Kim Bông dừng lại, tai nó ù đi vì tiếng reo hò ca ngợi của xung quanh, nó càng nức lòng, chân nó giậm xuống đất cồm cộp như muốn bay thêm hàng nghìn vòng nữa mới phỉ sức.
Khi tiếng trống lệnh chuyển sang phi nước kiệu, con Kim Bông rời vạch một cái, là bốn chân nó băm liền trên mặt đất như guồng nước, tiếng chân vỗ rồn rã như mõ đổ hồi, đuôi trải ra trắng như một dòng nước chảy xối. Nó chạy hết một vòng mà trên lưng nó một kỵ binh bưng một bát nước đầy, bát nước không sánh ra ngoài một giọt.
Lúc này nó thấy tất cả đua trường đều hướng nhìn về nó, trầm trồ ca ngợi tài nó. Nó lại hí lên một tiếng thật dài kiêu hãnh.
Sau cuộc đua này, nó được cả đua trường tặng danh là "Bạch long Thiên lý mã" và chọn làm mẫu mực để luyện tập cho cả đoàn ngựa chiến của triều đình. Cho nên chẳng bao lâu các đồng loại của nó cũng trở thành những chiến mã lành nghề. Và từ đó nó cùng bầy ngựa chiến xông pha chiến trận, trải nhiều trận vào sanh ra tử. Nó nhớ nhất là trận quần chiến bên bờ sông Gianh. Thế địch mạnh, quân địch đã thắt vòng quanh nó, nhiều đồng loại nó đã phơi thây. Nó gắng hết sức mạnh, vùng lên như hổ đói, phá vỡ vòng vây, hạ thủ tướng địch, giành toàn thắng. Sau trận này, nó được Chúa Trịnh chọn làm mã lệnh và được vào ở trong phủ Chúa.
Chúa Trịnh truyền cho quân lính, xây một chiếc hồ bán nguyệt, phía Nam vườn Thượng uyển, để làm chỗ tắm cho mã lệnh, và cử hai mươi mã phu ngày ngày trong nom săn sóc ngựa quý của Chúa.
Lần đầu tiên con "Thiên lý" đặt chân tới Hoàng cung. Trước mặt nó toàn những lâu đài nguy nga tráng lệ, trông phía nào cũng thấy vàng son chói lọi. Dưới chân nó toàn những đá xanh nhẵn bóng. Những cảnh vật mới lạ khiến nó sợ hãi. Nó toát mồ hôi, run lên cầm cập, khi đặt chân lên những phiến đá hoa, được dịp đưa mắt nhìn hai hàng thị vệ tả hữu, đứng cắp gươm trần bên hành lang. Nó rụt rè, co cổ lại khi mã phu dắt nó vào mã đài, nó tưởng mã phu đưa nhầm nó vào nơi ở của một tướng lĩnh.
Con Thiên lý được vào ngự hẳn trong mã đài ngày ngày chỉ ăn và tắm. Mỗi buổi chiều nó phải đứng một chỗ để dăm bảy mã phu mang kéo tỉa từng sợi mao, vuốt ve từng chiếc lông đuôi. Nó càng cảm thấy bận bịu, tù cẳng. Nó bắt đầu mơ ước những cảnh sống khi còn ở bên ngoài cung cấm: "Ôi chao! Còn đâu những buổi sáng ta cùng đồng loại trên đua trường hàng vạn người ca ngợi tài ba? Với cái sức khỏe bay hàng nghìn dặm, với cái thế "cao đầu phóng vĩ" hùng dũng như ta, đã bao phen sông pha trận tuyến, đời ta tù túng như thế này thì ta sống sao được? Sao Chúa không cho ta được đem tài ra vùng vẫy trên chiến trường? Hay Chúa đã quên ta là kẻ có tài?".
Một buổi sáng, nó đang đứng trong mã đài, hai con mắt đăm đăm vọng ra ngoài bức thành cao ngất, nó bỗng thấy một mã phu nai nịt gọn ghẽ, khác ngày thường, đến giắt nó ra đứng dưới mái hiên, phía tả hành lang. Nó sửng sốt, tưởng phen này lại được xung trận. Một mã phu khác trải lên lưng nó một tấm gấm điều, xung quanh thêu kim tuyến. Nó ngoái cổ lại, bỗng thấy mình đẹp như phượng hoàng. Hai mã phu nữa mang đến đàng sau nó một vật gì vuông vắn giống như một nhà lầu, gấm vóc xanh đỏ phủ quanh. Một mã phu nữa mang cương đóng vào gáy nó. Bộ cương quý giá và đẹp đẽ làm sao? Đời nó chưa từng thấy. Hàm thiếc bằng bạc: hai đầu nạm vàng sáng lóe. Nó sung sướng gục đầu xuống nạp hàm thiếc một cách ngoan ngoãn. Khi mã phu buông tay: lạ lùng lắm, nó thấy hai vật gì to bằng hai cái lá đa che ngang hai bên mắt khiến nó chỉ có thể nhìn thẳng phía trước mà thôi. Rồi một mã phu đẩy nó lùi lại, đứng giữa hai càng gỗ sơn son thếp vàng. Ủa, lạ quá chừng, những cái gì mà đẹp thế này? Ta sẽ làm gì đây? Nó rùng mình, thấy hãnh diện như được sống một kiếp sống khác, sung sướng hơn trước.
Bỗng dưng hai càng gỗ dúi mạnh một cái, cổ nó bệt xuống, miệng nó gần chạm đất, nó vừa ngóc được lên thì dây cương đã ghìm thẳng. Nó cất bước thấy nặng; cái nặng quái gở, như bóp nghẹt lấy cổ, có lúc bềnh bồng nhẹ đi một chút, nhưng rồi gáy nó càng như lún xuống. Nó phải cố lấy gân bốn bó mới giữ được cái thế đứng đường bệ. Rồi bỗng có một ngọn roi da quất nhẹ vào mông, nó cắm cổ đi. Khi nghe tiếng bánh xe nghiền trên mặt đá, nó mới biết là nó đang kéo xe cho Chúa.
Nó gục đầu xuống lủi thủi kéo chiếc xe qua sân, hai mắt nó lờ đờ nhìn thẳng, mỏi mệt, chán ngán.
Nhưng chẳng bao lâu, những chậu thóc trộn mật vừa ngọt vừa bùi, những bó lá trúc quân tử vừa thơm vừa ròn sậm sựt đã cùng những buồn tủi sầu muộn, cùng những ước mơ trôi qua ruột, tống ra ngoài trả lại cho quá khứ. Con thiên lý dần dần quen với chức vị. Nó thấy mình phải phò Chúa cho đến hơi thở cuối cùng mới xứng danh Thiên lý mã.
Trong những buổi chầu nó thấy hàng trăm đôi hia, ủng và đủ các loại ống quần, tà áo, văn có, võ có, lướt đi lướt lại trước mắt, nó càng thấy chức vị nó to tát ghê gớm! Chốn thâm nghiêm cung cấm nào mà chân nó không bước tới? Có việc quốc sự triều đình nào vắng mặt nó? Nó đi đến đâu cũng thấy người chắp tay khấu đầu tung hô vạn tuế. Đời nó quả là đã sang một bước đường hiển hách, hơn tất cả những lúc oai phong chiếm giải đầu trên các trường đua.
Một buổi chiều, trên cổng thành đã nổi trống thu không, mặt trời đã khuất hẳn mái lầu tây, mặt hồ đã gợn lên một mầu đỏ nhạt của giáng chiều, nó sung sướng kéo Chúa cùng bà phi đi ngoạn cảnh. Đi chẳng cần đến đâu, nó được đôi lúc thong dong đứng lại, soi bóng dưới nước. Chà! Mặt nhìn mặt, ta uy nghi lộng lẫy đến thế này ư? Kìa hai lá đa che mặt ta có khác gì hai cánh mũ của vị đại thần? Hai càng gỗ khác gì tay ngai ngày ngày Chúa vẫn ngự! Phải chăng giời đã an bài cho số phận ta! Nó càng nhìn càng thấy bóng nó dưới nước to ra, to mãi, uy nghi trong sắc nước lẫn sắc trời.
Nó đang say sưa ngắm bóng bỗng dây cương lại giật mạnh. Mép nó găng thẳng ra, nó lại bắt đầu cất bước. Xe tới đầu vườn Thượng uyển, có lệnh dừng lại. Tức thì hai bên tay ngai dìm mạnh cổ nó xuống rồi lại bềnh lên nhẹ bỗng. Nó vừa ngóc đầu lên thì một luồng gió mát, lướt đưa vào lỗ mũi nó những hương thơm ngào ngạt của muôn hoa. Nó phồng hai cánh mũi, hớn mặt lên thì gấu xiêm mầu thiên thanh của bà phi phất nhẹ qua mặt nó. Nó cảm thấy một vị thơm đầm đậm. Nó đưa mắt nhìn theo chỉ thấy từ ngang lưng trở xuống của Chúa và bà phi. Gió hồ lồng vào vạt áo Chúa và dải xiêm bà phi, làm căng phồng lên và đú đởn múa may trước mặt nó. Nó cảm động, đứng ngẩn ra, hai mắt dương thao láo: "Chà! Thật là ngoạn mục! Ôi! Giời đã ban cho ta đôi nhãn ngọc để riêng ta được nhìn những vưu vật của trần gian, ta đội ơn Trời".
Càng nhìn theo càng thấy ngoạn mục, nó càng thấy hối hận với những sự việc ngày trước. Nó giậm chân xuống đất cộp cộp, mắt nó nhắm lại, đầu nó đập vào hai càng xe như để nhận lấy một hình phạt xứng đáng với tội lỗi của mình. Vừa đập đầu vừa kể tội: "Tội thứ nhất là khi chưa vào phủ Chúa ta đã để cho Chúa và bà phi phải vất vả khó nhọc biết chừng nào! Tội thứ hai: Sao ta dám đem một việc nhỏ bé tầm thường so sánh với chức mã lệnh đáng tôn kính của Chúa đã ban cho như thế chẳng phải trước đây ta đã phụ ơn Chúa hay sao? Tội ta thật là đáng phanh thây mới phải. Nếu ta chỉ nghĩ đến cuộc đời phóng khoáng, chỉ nghĩ đến những lúc cùng đồng loại đua tranh, thì lấy ai để cùng Chúa gánh vác giang sơn, làm cho trăm họ được an cư lạc nghiệp! Ơn hưởng lộc Chúa, sức ta ngày một cường tráng, thì cái vượt hàng ngàn dặm đối với ta có gì đáng kể".
Sống một cuộc đời lặng lẽ trong phủ Chúa, bằng sự kiêu hãnh với chức mã lệnh, chẳng bao lâu trên bờm, mao con Thiên lý đã trồi lên một lớp lông vàng oè. Trước mã đài nó đã nhìn thấy những cây cảnh bao lần đổi lá. Nhưng nó không biết đời nó đã chuyển dần về già. Tài nó cũng đã mòn mỏi. Nó vẫn tưởng nó còn sức chạy dư ngàn dặm!
Có một buổi sáng, nó được kéo xe để Chúa cùng bà phi ra ngoạn cảnh ngoại thành. Từ ngày vào phủ Chúa, lần đầu nó được đi ra ngoài. Nó ước ao được thăm cảnh cũ. Xe ra khỏi phủ Chúa, bon bon trên con đường đất rộng thênh thang. Nhìn thẳng phía trước, nó lấy làm lạ, nó kêu í í trong cổ như tự hỏi: "Làm sao con đường này ngày xưa rộng mà nay nhỏ bé như thế này!". Đi được một quãng nó nhìn lên phía trên, lại dừng lại tự hỏi: "Ô hay, ngôi chùa kia, ngày xưa rõ ràng nằm bên cạnh một quả đồi lớn, mà bây giờ lại nhỏ bằng con đường ta đang đi là nghĩa làm sao?". Tất cả những cảnh vật trước mắt nó đều nhỏ lại, và thẳng tắp. Nó nhìn cánh đồng, cánh đồng cũng chỉ là một con đường thẳng. Rồi cây cỏ, núi đồi cho đến mầu giời xanh cũng chỉ thu nhỏ lại là một đường thẳng. Nó không ngờ hai chiếc lá đa che hai bên mắt chỉ cho nó nhìn được một chiều.
... Xe đi mãi. Lúc gần đến một thao trường, nó bỗng nghe tiếng hí của đồng loại. Tự dưng nó hớn hở: "Chắc các chú em bao lâu không gặp ta, sẽ khấu đầu chúc tụng". Vừa nghĩ nó vừa cất nhanh bước. Xe vừa tới thì đồng loại nó cũng nhảy bổ đến trước mặt nó, miệng hí chân cất tiền, cất hậu như chê bai nước đi và tướng mạo của nó. Nó tím gan, hí lên một tiếng như để quở mắng: "Bọn nhãi kia, tội các chú đáng chặt đầu làm lệnh! Các chú không biết ta là ai ư? Đã quên tài của anh đấy rồi sao?". Tất cả đồng loại nó, nhe cả răng, và í í lại trong cổ: "Chúng tôi biết bác lắm, biết bác ngày xưa là kẻ có tài nhưng bây giờ chúng em nhìn qua đã thấy bật cười về tài của bác. Thôi bác ạ! Đừng khoe tài nữa, chúng em đây ngại bác không rời được khỏi cái xe của Chúa! Rời ra thì thóc kia trộn mật ai ăn?".
Con Thiên lý uất lên, muốn thoát khỏi xe xông thẳng ra ngoài để tỷ sức, nhưng trên xe lại giật cương. Nó bực lắm nhưng cũng phải cắm đầu đi. Vừa đi vừa nghĩ: "Những kẻ ngu si hèn mạt kia, ở đời này bay chỉ nhìn có một chiều. Bay không biết được ta làm đây dễ mấy kẻ đã làm được! Sức bay được mấy nả mà vội kiêu ngạo, bay chạy được vài dặm đã phờ mao sều dãi. Rồi đây ta sẽ cho bay biết tài ta!".
Và hình ảnh một trường đua gió lộng, bụi cuốn, cờ bay, bỗng hiện ra, như thách thức. Con Thiên lý mã vẫn tin mình còn đủ sức phi lên hàng đầu.
Sự đời biến đổi. Sau đó ít lâu, Chúa Trịnh được tin nhiều tướng tá thua trận ở bên bờ sông Gianh. Chúa định thân chinh đi, nên truyền cho viên tướng trông coi về kỵ binh mang mã lệnh ra đua trường để ôn dượt trước khi xung trận. Viên tướng liền cúi đầu tâu lại: "Muôn tâu Chúa công, hiện nay trong triều đình thiếu gì ngựa chiến có dư sức vượt hàng nghìn dặm, và đã từng dự trên dưới một trăm trận. Xin Chúa công để tiểu tướng được chọn dâng một con mã chiến có sức khỏe vào bực nhất. Còn như con mã lệnh, cứ nên để nó kéo xe; vì từ khi đem nó vào phủ Chúa, nó ăn thì nhiều, lại không hề luyện tập, tài nó ắt không được như trước. Nếu Chúa công dùng con mã lệnh để ra trận, tiểu tướng áy náy lắm!".
Nghe tâu trình, Chúa Trịnh cũng thấy viên tướng là có lý, nhưng Chúa vẫn còn tin ở tài con mã lệnh, Chúa bèn hạ lệnh cho mang con mã lệnh ra tỉ sức cùng các chiến mã khác để tiện bề kén chọn.
Con Thiên lý mã được dịp rời phủ Chúa ra đua trường. Hai cái lá đa đã được cất đi. Nó bàng hoàng nhìn giời, nhìn đất, mắt nó hoa hoa, đầu nó choáng váng. Cảnh vật như quay chong chóng, cây như mọc ngược, núi như đổ xuống. Vừa gặp đồng loại một cái, nó cố dóng hai tai, tóp bụng lại lấy hơi hí một tiếng để dương oai. Nhưng tiếng hí của nó vừa ré lên thì cụt lủn như vật gì nút lấy mõm. Các đồng loại của nó cũng nhe răng ra cười rồi cùng cất tiếng hí làm cho nó càng uất. Không chờ tiếng trống lệnh, nó đã lồng lên, tức thì các đồng loại của nó cũng bỏ vạch rượt theo. Tiếng trống liên hồi, con Thiên lý càng cắm cổ chạy. Nó đã tưởng mình thắng cuộc, nó đắc chí ngoáy đầu lại thì bọn ngựa chiến đã tới sát đàng sau. Chỉ trong chớp mắt nó bị tụt lại. Không chịu, nó càng lồng lên. Bỗng nó thấy nhói một cái ở ngang bụng như bị một nhát gươm chém mạnh. Nó ngã vật xuống, vùi đầu trong bụi lốc của đàn ngựa bay qua, nó biết là đứt ruột, không thể sống được. Nó gắng mở to hai mắt, rên lên một tiếng như nói rằng: "Tiếng tăm lừng lẫy của ta chỉ có thể chết ở chiến trường. Nhưng, than ôi! Bãi cỏ này cũng là bãi chiến trường, chết thế này cũng là chết vì giang sơn, vì Chúa!".
Trước hơi thở cuối cùng, nó lấy hết sức tàn, ngóc đầu lên, co co hai chân trước, thẳng thẳng hai chân sau, chừng như để cố giữ lấy cái thế "cao đầu phóng vĩ".
Hà Nội, 10-1956
Quảng cáo
Kỳ sau: “Thi sĩ máy”, Truyện của Kim Châm
Sẽ đăng: Thơ Hoài Tô Nguyên (văn nghệ miền Nam)
Trần Duy
Nhân xem phòng triển lãm nghệ thuật dân gian Ru-ma-ni, nghệ thuật và thực dụng
Bước vào phòng Triển lãm nghệ thuật dân gian Ru-ma-ni, chúng ta có cảm giác, trong khoảnh khắc, đã đi trên đất nước Ru-ma-ni qua những vùng Cô-rai-ô-va, Bu-ca-rét-sơ v.v… Sống với người dân Ti-mi So-a-ra hoặc Bai-a-ma-rê… Vùng Mon-da-via phong thổ miền Bắc trầm mặc, rét buốt hoặc Mun-té-nia…
Chúng ta đến với từng vùng một, tiếp xúc với từng tập tục, chúng ta như trong một cuộc du lịch ngắn hạn, bước vào những nhà thờ cổ, mấy ngôi nhà cũ kỹ, nhưng ấm cúng nói lên cái tình cảm của con người gắn liền với kỷ niệm của quê hương đất nước.
Ở đây là phòng ngủ và đây là phòng cô dâu chú rể, đây là phòng khách v.v… Từ nghìn dặm chuyển sang đây, vẫn tôn trọng được cái cá tính của chủ nhân những ngôi nhà nhỏ bé ấy, tôn trọng cái thơ mộng cá biệt của con người.
Chúng ta thấy những ngôi nhà ấy căn buồng ấy, đồ dùng ấy là những ngôi nhà để cho những con người có tâm hồn biết yêu biết ghét ở, những căn buồng ấy là những căn buồng cho những con người có đầu óc và quả tim nằm, những đồ dùng ấy là những đồ dùng cho những con người có ý thức và tâm hồn sử dụng… cho nên nó cũng mang theo, tâm hồn và tình cảm của những người bạn Ru-ma-ni… từ phương xa.
Đừng tưởng chỉ có tráng lệ huy hoàng, có tường đá cẩm thạch… chỉ vàng óng ánh kim cương nhà cao tháp lớn v.v… mới nói lên được cái lớn lao khát vọng tâm hồn của con người…
Không phải như vậy đâu! Nhìn qua những gian nhà bằng gỗ thuỳ, sến, bạch phong cho đến những viên gạch to bản không nung, những nhà thông Hi-un mái nhọn đến những nhà thờ cổ vùng Ma-ra Mu-rét-sơ v.v… những cột kèo gỗ chạm, những đồ tầm thường dùng hàng ngày có chạm khắc rất công phu… Tuy những thứ ấy rất nhã nhặn, khiêm tốn nhưng đến với chúng ta với bao nhiêu tình cảm tế nhị duyên dáng nên thơ.
Người dân Ru-ma-ni đã biết dung hoà giữa cái đẹp và sự cần thiết hằng ngày một cách tài tình và do chỗ tài tình ấy nó chứng tỏ rằng người dân Ru-ma-ni có một quan điểm nghệ thuật rất cao.
Họ là người du mục. Họ mặc chiếc áo da… cái mắc áo làm bằng chân hưu bẻ cong lại, chiếc áo da không đơn thuần là một miếng da thú đem thuộc và khoác lên người, nó đi đôi cân nhịp với đường thêu viền vải… nên chiếc áo trở thành duyên dáng. Họ sống cùng thiên nhiên với những con cừu, con công, với cây bạch phong, cây thông… với chim, với thú. Họ sống với tất cả tâm hồn của họ, họ rung cảm với những đề tài ấy... họ nắm được hình dáng và mầu sắc của sự vật chung quanh, để lúc đưa những đề tài ấy vào nghệ thuật họ không nô lệ với thiên nhiên. Họ sử dụng thiên nhiên một cách sáng tạo… họ cách điệu hoá, và cách điệu hoá một cách mạnh dạn, đầy cá tính và sở thích! Không có một trở lực giữ tay họ lại, không có một phương pháp tư tưởng nào hạn chế tâm hồn họ lại, nên người nghệ sĩ dân gian Ru-ma-ni đã thành công trong việc sáng tạo.
Mầu sắc đọng lại thành khối chắc, đường nét phối hợp vô cùng sinh động và tinh vi, lúc đơn giản thành từng nét lớn, lúc phức tạp cầu kỳ như một đồng hoa, như một cánh bướm…
Và tâm hồn người nghệ sĩ dân gian Ru-ma-ni đồng thời cũng là một đồng hoa và một cánh bướm.
Họ đẹp một cách mộc mạc và hồn nhiên kín đáo!... Và chính cái đẹp ấy mới là cái đẹp gửi lại sâu sắc ở tâm hồn nhau.
Chúng ta thấy những tấm thảm dệt của On-it-ni, của Ba-ná, của Mon-da-via…
Từ màu sắc đến đường nét, đã nói lên được tâm hồn, sắc thái cá tính không những của người nghệ sĩ sáng tác, mà cả nhân dân của những vùng ấy.
Dùng đường nét trong việc trang trí, cách điệu hoá thiên nhiên là cái nghệ thuật rất cổ sơ của loài người, nhưng đồng thời cũng là một nghệ thuật ưu tú tuyệt tác của loài người.
Càng những dân tộc sống gần thiên nhiên bao nhiêu, tác phẩm nghệ thuật của họ càng vượt lên trên thiên nhiên chủ nghĩa bấy nhiêu.
Cho nên vẽ thật hệt, giống y như thật, không phải là tuyệt đối phù hợp với quan niệm nghệ thuật dân gian.
Và dựa vào thiên nhiên để cách điệu hoá nó, đẩy nó thoát ngoài sự thật chật hẹp gò bó, biến nó thành hình thành khối, thoát lý sự thật thiển cận, không phải là tuyệt đối trái với quan niệm nghệ thuật dân gian.
Xem tranh và xem nghệ thuật tất nhiên là xem bằng mắt, nhưng đừng nên dùng bản ngã và cảm tính quá nhiều.
Những người chủ trương vẽ giống thật, văn nghệ như thật v.v… họ đã lười biếng để bản năng át trí tuệ, không phối hợp chặt chẽ đôi mắt, trí óc và quả tim! Nghệ thuật dưới sự chi phối của họ, nghệ thuật sẽ mất cái tính chất nghệ thuật của nó.
Chủ nghĩa thực dụng trong văn nghệ tưởng rằng phù hợp với yêu cầu của quần chúng kỳ thật trái ngược với quan điểm nghệ thuật dân gian.
Họ cho rằng thực dụng chỉ đơn thuần để đáp những cái nhu cầu gần nhất, cụ thể nhất của con người… nó có thể không cần mang tính chất nghệ thuật của nó. Nghĩ như vậy là chưa thấy rõ cuộc sống và nghệ thuật.
Khi chúng ta thấy những cái môi múc canh bằng gỗ, những cái xiên thịt cừu, những chiếc hòm bằng gỗ bạch phong, những đôi guốc mộc, những bầu rượu v.v… nói chung những vật dụng rất quen thuộc hàng ngày, người dân Ru-ma-ni cũng đã mang tất cả tâm hồn của mình đi gửi lên đấy bằng nét chạm, mầu sắc, chúng ta đều phải nhận thức rằng con người sử dụng thiên nhiên và nghệ thuật hoá thiên nhiên. Con người cần ăn no, mặc ấm, nhưng con người cũng cần nghệ thuật để phục vụ những nhu cầu của tâm hồn tình cảm của mình.
Người dân vùng Cu-lu-đơ lúc bưng những chén gỗ uống nước, đồng thời cũng là những người nghệ sĩ vô danh điêu khắc của những cái chén gỗ ấy…
Người nội trợ ở vùng Bai-a-ma-rê sắp thức ăn vào những chiếc đĩa men, chính họ, chồng con họ là những nghệ sĩ đồ nặn và trang trí những chồng đĩa, bình rượu kia.
Khi những thanh niên vùng Cơ-rai-ô-va tặng đôi vợ chồng trẻ một chiếc bình rượu cưới hình con thiên nga… không những họ là những người nghệ sĩ tài tình, mà họ còn là những người suy nghĩ dí dỏm và tế nhị: Ở ngực con thiên nga lớn có bầy thiên nga con… ngụ ý muốn chúc cô dâu chú rể sau này sẽ có nhiều con xinh đẹp.
Một nền nghệ thuật do quần chúng sáng tạo nên, phù hợp với bản chất tình cảm của quần chúng, là một nền nghệ thuật "thực dụng", đồng thời cũng là một nền nghệ thuật chân chính và phong phú. Quần chúng rất nhiều khả năng sáng tạo, độc đáo trong nghệ thuật, đầy sở thích và cá tính…
Vi phạm đến sở thích, cá tính, độc đáo trong nghệ thuật, là vi phạm đến mọi khả năng sáng tạo của người nghệ sĩ, và bóp nghẹt nghệ thuật.
Nghệ thuật dân gian của nước Cộng hoà Ru-ma-ni xuất phát từ cơ sở dân tộc có truyền thống, nó gắn bó với đời sống vật chất, tình cảm của người dân Ru-ma-ni, càng cho chúng ta thấy rõ những đức tính cần cù, ưa lao động, nhưng độc đáo, thơ mộng, chuộng nghệ thuật đến một trình độ thẩm mỹ tinh vi và tế nhị của nhân dân Ru-ma-ni.
Phòng triển lãm tranh giới thiệu với chúng ta nghệ thuật dân gian Ru-ma-ni, giới thiệu với chúng ta qua các vật dùng hằng ngày "thân thiết" tâm hồn của người dân lao động Ru-ma-ni… nhưng đồng thời phòng triển lãm cũng giúp cho chúng ta những nhận thức cơ bản về nghệ thuật dân gian không phải là nghệ thuật tự nhiên chủ nghĩa, nghệ thuật dân gian là một nghệ thuật tự do hoàn toàn đứng trên những công thức lề lối gò bó, nghệ thuật dân gian là một nghệ thuật tập thể, có truyền thống, nhưng đồng thời nó vẫn mang cái tính chất độc đáo, đầy cá tính của người nghệ sĩ đã sáng tạo ra nó.
Nó cho chúng ta một nhận thức rằng các vật dụng hàng ngày không chỉ đơn thuần có tính chất nghệ thuật thoả mãn nhu cầu tình cảm và thẩm mỹ của con người – Nó giúp cho chúng ta lòng tự tin, yêu nhân dân, yêu nghệ thuật, cổ vũ chúng ta mạnh dạn tìm tòi, trong việc sáng tác… Có thể sự mạnh dạn tìm tòi ấy hiện nay vượt mọi ràng buộc công thức, làm ngạc nhiên bỡ ngỡ một số người… nhưng việc tìm tòi và thí nghiệm bao giờ cũng làm ngạc nhiên và bỡ ngỡ những con mèo ngủ trưa quên mình trên những ống máng nước.
Văn Cao
Những ngày báo hiệu mùa xuân
Lời toà soạn: "Những người trên cửa biển", một bài thơ dài hơn 500 câu của Văn Cao dựng lên thành phố Hải Phòng và cuộc sống ở đó. Đoạn I và đoạn III đã trích đăng báoVăn nghệ từ lâu, đây là đoạn IV của bài thơ. Sau khi đã vẽ cảnh Hải Phòng, đã nói đến ước mơ, hy vọng của biển, tác giả đưa chúng ta vào tìm hiểu những tâm hồn người trong kháng chiến và khi hoà bình lập lại. Đoạn IV đi sâu thêm vào những cái đau xót, những nỗi khó khăn của Hải Phòng trong hoà bình. Cả đoạn này thấm sâu vào lòng người đọc, để bốc lên một niềm tin tưởng vững chắc.
Thơ Văn Cao là một dòng thơ tự do, không có vần, không bắt khuôn vào một nhịp điệu nào sẵn có. Âm điệu bài thơ vang động rất kín đáo, nhưng cũng rất mạnh trong từng câu, từng câu. Mỗi chữ của Văn Cao đều rất chọn lọc. Văn Cao dùng cảm giác, hình tượng rất mới mẻ để diễn tả con người và cuộc sống. "Những con bói cá", "những con rồng đất", "những con bạch tuộc" là tượng trưng cho một vài hạng người trong xã hội.
Văn Cao là một nhạc sĩ. Trong Văn Cao thi sĩ, chúng ta cũng thấy nhạc điệu của anh rung lên, ý nhị và sâu sắc.
1.
Tiếng chuông nhà thờ buổi chiều lại đổ
Nghe âm u tối lạnh những ngày xưa
Trở về mây đen và bóng tối
Lãng đãng qua trong mỗi tâm hồn người
Vàng đôi mắt leo lét bên ngọn nến
Vẫn câu kinh mỏi mệt khi xưa
Vòi vọi bao niềm đau khổ
Tôi nghe người mẹ xa con mong nhớ
Vắng bóng con vắng bóng nắng trong nhà
Ai biết cao su đất đỏ là đâu
Ai cứu rỡ những tâm hồn sa ngã ấy?
Vợ xa chồng
Anh xa em
Chiều Nam chiều Bắc cùng sầu
Tiếng thức dậy niềm cô đơn sầu xứ
Những con người gần ánh sáng chưa quen
Rúc đầu trở vào bóng tối
Những người bạn gian khổ trong kháng chiến
Vợ ốm con đau nhau nhứt lo phiền
Chưa quen cảnh nhìn mặt người giữa thời gian sáng tối
Chưa hiểu bước đi giữa ban ngày mới đuổi đêm.
Gió bão tới đâu cũng không một lúc
Rụng hết lá vàng
Ngày báo hiệu mùa xuân mầm nở mầm tàn…
Có người tự nhiên tiếc bàn tay đã mất
Từng đêm thức đau vết đạn trên mình
Có người tiếc những mùa xuân qua mất
Chủ nhật lang thang ngơ ngác giữa kính gương
Những đôi mắt bỗng nhiên thèm tơ lụa
Thèm những gót chân nhỏ nhắn trên hè
Trong những ngày Hải Phòng còn lổng chổng
Xác nhà xác máy xác kho hàng
Những dãy phố bên đường cửa khép cửa dương
Những buổi chiều thưa thớt người trên phố.
Bóng tối ngày xưa còn bảng lảng
Kẻ thù của chúng
Lãng lẽ tấn công những tâm hồn sa ngã
Những tâm hồn khư khư tấm bìa da một cuốn sách kinh
2.
Nước biển đổ vào quanh Hải Phòng ngày bão
Làng mạc bồng bềnh trời đất bềnh bông
Ở những ngọn tre xác xơ mốc lên chất muối
Còn lại ít rơm khô những mái nhà trôi
Những mảnh lưới thuyền ai bay tan tác
Xe gạo ngày đêm từ Hải Phòng về các xóm
Chúng tôi đêm ngày vét nước nối đê
Tưới ngọt lại ruộng đồng, dựng lại từng thôn xóm
Tìm lại những nụ cười ở mỗi người sống sót
Lửa đỏ đêm đêm trên bãi biển bập bùng
Trong những ngày khó khăn chồng chất
Kẻ thù của chúng ta xuất hiện
Những con rồng đất khi đỏ khi xanh
Lẩn trong hàng ngũ
Những con bói cá
Đậu trên những chiếc dây buồm
Đang đo mực nước
Những con bạch tuộc
Bao nhiêu tay chân dìm chết một con người.
Đất nước đang lên da lên thịt
Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày
Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải
Đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống
Chúng muốn các em nhỏ mới biết đi phải rụng
Mòn mỏi dần sức vỡ đất khai hoang
Làm rỗng những con người lụi dần niềm hi vọng
Héo dần mầm sáng tạo mất phẩm giá con người
Chúng nó ở bên ta trong ta lén lút
Đào rỗng từng kho tiền gạo thuốc men
Tôi đã thấy từng mặt, từng tên xâu chuỗi
Tôi sẽ vạch từng tên từng mặt
Hãy dừng lại
Những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc
Những tên muốn làm cây to che cớm mầm non
Con đường ta đi tự hào lực lượng
Con đường nước nguồn thành sông thành biển
Con đường ta đi tự hào duy nhất
Con đường đi trái đất quanh mặt trời
(“Những ngày báo hiệu mùa xuân” là một đoạn trong bài thơ dài “Những người trên cửa biển” của Văn Cao, trong tập thơ Cửa biển của Hoàng Cầm, Văn Cao, Trần Dần, Lê Đạt, Nhà xuất bản Văn nghệ sắp phát hành trong tuần lễ tới. Chúng tôi sẽ có dịp giới thiệu tập thơ này trong một số báo sau.)
Bùi Quang Đoài
Chủ nghĩa nhân văn của ông Hoàng Xuân Nhị
Trên báo Nhân dân ngày 16 và 17-10-56 có đăng bài “Chủ nghĩa nhân văn của chúng ta” của ông Hoàng Xuân Nhị.
Bài này trên căn bản cũng không khác gì những bài của các ông Nguyễn Chương, Xuân Trường, Quang Đạm cũng đăng trên báo Nhân dân và cùng nằm trong phạm trù những ý kiến là có ý đổ cho anh em Nhân văn và Giai phẩm là muốn tách rời văn nghệ khỏi chính trị, chịu ảnh hưởng của nhân văn tư sản, không chịu sự lãnh đạo của Đảng, nói xấu chế độ v.v…
Sau đây là những ý kiến tôi đặt lại vấn đề với ông Hoàng Xuân Nhị. Trong nhận thức sai lầm của ông và ý kiến văn học của Lê-nin.
Trong bài “Tổ chức của Đảng và văn học của Đảng” mà ông Hoàng Xuân Nhị dịch là “tổ chức của Đảng và văn học có Đảng tính” của Lê-nin đã nêu lên hai vấn đề:
1. Vấn đề văn học của Đảng nghĩa là văn học tuyên truyền cho những nguyên lý tư tưởng và tổ chức của Đảng Bôn-sê-vik.
2. Vấn đề đảng tính trong sự sáng tác văn học, theo nghĩa rộng của nó. (Những ý kiến này chúng tôi dựa vào tập Lê-nin và những vấn đề văn học Nga của Boris Meilakh. Nhà xuất bản Xã hội 4-4-56).
Sự phân biệt hai vấn đề này rất quan trọng, nếu không rất dễ đi đến những hành động máy móc, hẹp hòi, thô bạo.
Trong vấn đề văn học của Đảng, Lê-nin viết: “Tất cả văn học của Đảng, dù là địa phương hay Trung ương phải phục tùng một cách vô điều kiện Hội nghị của Đảng và những tổ chức địa phương hay trung ương của Đảng. Sự tồn tại của một văn học của Đảng mà không liên hệ với Đảng theo tổ chức thì không thể dung nạp được.”(Lê-nin toàn tập cuốn X, trang 144). Đó là thời kỳ trước cách mạng 1905-1907, Đảng Bôn-sê-vik tích cực hoạt động chống bọn Men và báo chí của chúng đang tuyên truyền xuyên tạc chủ nghĩa Mác-xít dưới danh nghĩa “mác-xít”. Ông Hoàng Xuân Nhị đã máy móc đưa thời gian lịch sử của thời kỳ trước cách mạng 1905-1907 đem áp dụng vào hoàn cảnh xã hội ta hiện nay. Chính trong nguyên tắc căn bản đó, Lê-nin đã nhắc nhở các nhà văn của Đảng là “Sự nghiệp văn học phải trở thành một bộ phận trong toàn bộ sự nghiệp của giai cấp vô sản, phải trở thành một bộ phận cấu tạo trong công tác của Đảng…” Theo tinh thần nguyên tắc đó các nhà văn của Đảng, các nhà văn đảng viên, các nhà văn viết trên báo chí của Đảng, tuyệt đối phải chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, của tổ chức của Đảng, không được nhân danh Đảng để tuyên truyền những quan điểm chống Đảng (cuốn X, trang 31), và khi Lê-nin viết “đả đảo những nhà văn học phi Đảng” (mà ông Hoàng Xuân Nhị chú thích sai là chống lại Đảng thời ấy) chính là nhằm phản đối những nhà văn đảng viên chủ trương đứng trên tổ chức của Đảng, phản đối những nhà văn Men-sơ-vích tán thành sự công tác của nhà văn xã hội dân chủ với các tờ báo tư sản (lúc bấy giờ là giai cấp cầm quyền). Nó hoàn toàn không giống một chút nào với trường hợp của anh em Nhân văn và Giai phẩm đương đấu tranh đòi mở rộng tự do dân chủ chống những tệ lậu của lãnh đạo. Gán ghép như ông Hoàng Xuân Nhị tỏ ra rằng một là ông Nhị không tiêu hoá được tài liệu, hai là ông Nhị đã lợi dụng tài liệu một cách xuyên tạc. Nó không đúng với tinh thần trung thực của người trí thức.
Ông Nhị còn đề nghị:
“Bài của Lê-nin được viết ra cuối năm 1905 thời mà Đảng chưa lên nắm chính quyền. Đến lúc Đảng đã nắm chính quyền rồi thì lẽ cố nhiên nguyên tắc Đảng lãnh đạo và tổ chức lãnh đạo chuyên môn lại càng chặt chẽ hơn nữa”.
Sáng tỏ và chặt chẽ hơn, đồng ý. Nhưng chặt chẽ như thế nào? Có phải chặt chẽ là văn học nhất cử nhất động phải tuân theo ý kiến của một phái, chặt chẽ là chuyên môn vâng theo những ý kiến về chuyên môn của một số lãnh đạo không am hiểu về chuyên môn không?
Danh từ chặt chẽ buông xuôi như thế, rất có thể dẫn đến những sai lầm tai hại. Hoàng Xuân Nhị có nhớ kinh nghiệm đau xót của nhóm Prô-le-kun và nhóm R. A. P. P không?
Vấn đề thứ hai là vấn đề đảng tính trong văn học.
Lê-nin đã giải thích văn học có đảng tính như thế nào? Trong sự đấu tranh chống lại văn học tư sản địa vị chủ nghĩa, cá nhân chủ nghĩa, vô chính phủ v.v… “Lênin đã đề nghị sáng tạo ra một nền văn học xã hội chủ nhĩa, thực sự tự do và liên hệ công khai với văn học của giai cấp vô sản. Theo ý Lê-nin thì nền văn học đó phải thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Nó phải phục vụ cho hàng triệu triệu người lao động, những người con ưu tú, sức mạnh và tương lai của đất nước. Nền văn học đó phải là mối dây nối giữa kinh nghiệm quá khứ và cuộc đấu tranh hiện đại của giai cấp vô sản.” (B. Meilakh)
Văn học có đảng tính là như thế. Nó là một nền văn học “thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa, công khai bênh vực quyền lợi của nhân dân đứng trên lập trường của Đảng”. Cho nên văn học có đảng tính tuyệt đối không có nghĩa là văn học của những nhà văn trong tổ chức của Đảng. Càng tuyệt đối không có nghĩa là bắt buộc tất cả mọi nhà văn phải vào tổ chức của Đảng. Một tấm thẻ đảng viên không thể bảo đảm được đảng tính của một tác phẩm văn học. Trái lại một tác phẩm văn học có đảng tính rất có thể là của một nhà văn đứng ngoài tổ chức của Đảng.
Ví dụ: Mai-a-cốp-ski, Lỗ Tấn v.v…
Văn học có đảng tính nghĩa là văn học có lập trường đấu tranh rõ rệt trong “ý nghĩa thống nhất và tự nguyện” của những người sáng tác văn học xã hội chủ nghĩa. Như thế thì người sáng tác có đủ mọi quyền tự do của mình, tất nhiên cả quyền tự do tư tưởng, có quyền đi sâu vào từng sở thích riêng của mình. Lê-nin đã viết:
“Trong lãnh vực đó, tuyệt đối cần phải bảo đảm một sự tự do rộng lớn cho sáng kiến cá nhân, cho các khuynh hướng cá nhân, bảo đảm sự tự do tư tưởng và sức tưởng tượng, sự tự do về hình thức và về nội dung.” (Cuốn X trang 28)
Ta thấy ngày trước Lê nin đã có một quan niệm rộng rãi trong sự sáng tác văn học. Chính Lê-nin đã khiêm tốn trả lời Clara Zetkin khi hoạ sĩ này hỏi ý kiến Lê-nin về hoạ lập thể và vị lai:
"Tôi không biết nhiều về lãnh vực đó, nhưng tôi nghĩ rằng nếu những nhà nghệ sĩ trẻ tuổi biểu lộ nhiều cảm xúc của mình trước những xu hướng đó thì nó phải có một lý do hợp lý và người ta cần phải phân tích cái lý do đó theo quan điểm xã hội học." (Les Lettres Francaices số 609)
Lê-nin đã không kết án phái hoạ đó và Lê-nin đã đặt vấn đề cần phải phân tích nghiên cứu nội dung xã hội của nó…
Do sự không phân biệt nổi hai vấn đề văn học của Đảng và văn học có đảng tính trên, nên chỉ quan niệm về tự do tư tưởng ông Nhị cũng đã ngã vào những sai lầm nghiêm trọng:
Hoàng Xuân Nhị chứng minh rằng sở dĩ các nhà văn nghệ được tự do tư tưởng là nhờ Đảng. Ông đã đem ví dụ con chim bay trên bầu trời xanh để làm chân lý phổ biến muôn đời. Trong lịch sử tư tưởng của con người, người văn nghệ sĩ cũng như người khoa học, triết học qua bao chế độ khác nhau, dù bị giai cấp thống trị hành hạ, giết chết cũng không vì quyền uy mà huỷ bỏ ý kiến sáng tạo của mình: M. Servet và L. Vanini trên giàn củi lửa cũng không từ bỏ tư tưởng khoa học của mình; Cao Bá Quát đâu có vì lưỡi đao bạo lực của triều Nguyễn mà mất cái khí thế ngang tàng bất khuất của kẻ sĩ biết tự trọng.
Xuất phát từ lệch lạc đó, Hoàng Xuân Nhị cho rằng nhờ có Đảng mới có tự do tư tưởng. Như ý kiến tôi vừa trình bày, tôi hỏi lại ông Nhị là có Đảng rồi mới có quần chúng hay có quần chúng rồi mới có Đảng? Như thế thì rõ ràng là không phải có Đảng người văn nghệ sĩ mới có tự do tư tưởng mà ngay những thế kỷ trước cũng như thời kỳ trước cách mạng, mặc dầu thực dân đàn áp khủng bố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan vẫn kiên quyết tự do tư tưởng, tố cáo "cái xã hội chó đểu" buộc tội giới cầm quyền bấy giờ. Lúc ấy họ ấy họ có là đảng viên đâu; chỉ có là sáng tác phẩm của họ chịu ảnh hưởng ít nhiều của phong trào đấu tranh cách mạng mà thôi.
Như thế thì tự do tư tưởng không phải là một vấn đề do Đảng ban ơn cho quần chúng như ông Nhị đã lầm tưởng. Sở dĩ quần chúng văn nghệ sĩ mến Đảng, tin Đảng, thừa nhận sự lãnh đạo là vì Đảng là người lính tiền phong trong đội quân tự do tư tưởng đó, đã đấu tranh vì quyền lợi của nhân dân lao động cũng là mục đích của họ đấu tranh trong sáng tác văn học. Đảng tạo điều kiện tốt cho người ta tự do tư tưởng.
Trên đây, tôi đã trả lời ông Hoàng Xuân Nhị về một điểm lý luận chủ chốt trong bài của ông.
Tôi xin nói qua một số điểm khác. Để chứng tỏ những non yếu trong kiến thức của ông Nhị, và đề nghị ông nên khiêm tốn học hỏi hơn.
Dưới cái đầu đề rất to "Chủ nghĩa nhân văn của chúng ta", dưới những đề mục có vẻ khoa học ông Nhị đã có những lập luận nông cạn và sơ đẳng.
Chẳng hạn trong mục "Quan điểm khoa học" ông viết: "không sùng bái cá nhân vì bản thân mình quá sùng bái cá nhân mình thì không hay ho gì hơn và chắc cũng đã kém hay ho hơn là sùng bái lãnh tụ".
Thật là lý luận buồn cười. Theo ông Nhị thì có lẽ khuyết điểm sùng bái cá nhân nặng nhẹ tuỳ theo cấp bực, sùng bái cán bộ cao cấp thì hay ho hơn sùng bái cán bộ trung cấp v.v… Thật là phê bình bệnh sùng bái cá nhân mà bệnh sùng bái cá nhân nó lại thò ra ngay từ túi mình. Quan điểm ông đưa ra không khoa học như ông tưởng.
Đấy là về khoa học. Bây giờ về nghệ thuật. Nói về chủ nghĩa lập thể và Picasso, ông Nhị viết: "Trong khoảng 8 năm hoạ sĩ đã tiến nhiều… chúng ta không hoan nghênh phần lập thể hoặc đa đa chủ nghĩa nơi hoạ sĩ là đúng thôi" (thật là oan cho Picasso vì Picasso có theo chủ nghĩa đa đa bao giờ đâu, có lẽ ông Nhị nên nghiên cứu thêm về văn học và nghệ thuật thế giới hồi đầu thế kỷ XX để nắm vững hơn) "… Và phần tiến bộ của hoạ sĩ vượt khỏi hẳn chủ nghĩa đa đa, như con chim bồ câu hoà bình…"
Chết thật! Nói về tác phẩm nghệ thuật của Picasso mà chỉ nhắc đến con chim bồ câu hoà bình thôi thì tai hại quá. Chúng ta không phủ nhận giá trị của con chim bồ câu, nhưng không biết ông Nhị có biết đến bức Guernica hồi chiến tranh Tây Ban Nha và bức Chiến tranh và Hoà bình hồi gần đây không? Nó vẫn lập thể đấy ông Nhị ạ! Mà hội hoạ thế giới vẫn công nhận nó, mà Aragon người phụ trách văn nghệ của Đảng Cộng sản Pháp vẫn ca ngợi nó.
Ông Nhị thường hay dẫn Lê-nin, sao ông Nhị không học Lê-nin về thái độ khiêm tốn, tôn trọng tự do sáng tác và nghệ thuật độc đáo, tôn trọng cá tính con người? Ông Nhị đã vội vàng chê trách người ta là quá ư nông nổi…
Ông Nhị sa vào sai lầm đó cũng dễ hiểu. Bởi lập luận như Palisse thì nguyên nhân chính là vì Lê-nin là Lê nin và ông Hoàng Xuân Nhị mặc dầu luôn nhắc đến Lê-nin cũng vẫn chỉ là ông Hoàng Xuân Nhị.
Trong một bài báo ngắn tôi đã cố gắng trình bày vài sai lầm hoặc vài thiếu sót của ông Nhị về mặt kiến thức. Tôi xin đề nghị với ông Nhị một điều mà ông Nhị đã từng đề nghị với anh em Nhân văn và Giai phẩm: cố gắng nghiên cứu, suy nghĩ để giữ cho được bản chất trung thực của người trí thức.
Đính chính
Trang nhất, bài "Sự thật về vụ xúc phạm thi sĩ Nguyễn Bính và báo Trăm hoa" trong đoạn in chữ đậm ở dưới đầu đề, dòng cuối cùng:
- Sở Báo chí T.Ư. phải chịu HOÀN TOÀN trách nhiệm…
Xin đọc là:
- Sở Báo chí T.Ư. phải chịu MỘT PHẦN trách nhiệm…
Thanh Châu
Mua hàng mậu dịch
(phóng sự)
Sáng chủ nhật. Xe đạp chất đống trên hè nhà bách hoá. Giữa ngã tư, đồng chí công an múa găng tay điều khiển trật tự như một nhạc trưởng thận trọng. Chị Mênh nhìn đám đông tới tấp trước cửa hàng, hơi ngại. Chị Mênh là một cán bộ yếu vừa đi bệnh viện về. Chị có hai cái “séc” truy lĩnh trong tay. Chị nhờ tôi đi chọn ít hàng. Chị coi tôi là kẻ có ít nhiều kinh nghiệm xông pha mua hàng mậu dịch.
Muốn tỏ ra mình can đảm tôi quyết mở một “con đường máu”. Tôi nghĩ đến những đứa trẻ nhà chị đuơng chờ quần áo mới. Chị Mênh lách theo tôi. Hơi người trong ruột nhà hàng ngùn ngụt bốc. Mặt chị tái đi, chị Mênh hơn hếch mũi lên trần. Người quây chung quanh chúng tôi như trong chậu cá. Tôi chụm tay hét to vào tai chị: “Một là đi về, hai là đi vòng chọn hàng, lấy giá, làm séc, nhanh lên không lại kẻng”.
Những tiếng tôi vừa nói có vẻ “chuyên môn”! Tôi an ủi.
Nghĩa là ít nhất chúng ta phải “quan sát” các mặt hàng cho kỹ đã, quan sát và lấy giá.
Cuộc đời không giản dị như chị tưởng. Ví dụ, chị định mua 5 thước vải mình vừa ý, thì phải nhìn xem cái séc của mình ghi bao nhiêu tiền đã. Nếu 5 thước vải mà đúng 1 vạn đồng ghi trong séc thì gọn quá mất rồi.
Chị Mênh lo lắng.
“Thế quá số tiền ghi trrong séc. Ví dụ hai vạn?”
“Thì phải trả hai nghìn nữa, bằng tiền túi của mình, chứ không phải tiền đi xin được.”
“Thế trường hợp 5 thước vải không đến một vạn đồng?”
“Thì lại đi quan sát xem có thứ hàng gì vừa với số tiền thừa…, đôi tất nội, cái bàn chải, tuỳ ý chị.”
Biết chị Mênh đã nắm được phần nào “quy luật” mua hàng, tôi bắt đầu giới thiệu các loại mà tôi gần thuộc hết – vì mất bao nhiêu ngày nghiên cứu – cũng trong trường hợp mua hàng bằng séc trước chị Mênh:
“Thuốc đánh răng Trung Quốc và nội hoá, giày Tiệp thể thao và giày da các cỡ, vải bông in hoa bọc chăn, vải ca-rô Bảo các màu, téc-mốt vỏ tre đan và vỏ sắt, vải xám Đông Đức và vải tím công nhân, vải pô-pơ-lin kẻ và lanh cứt ngựa…”
Chị Mênh ngắt lời tôi:
“Tôi chỉ cần một cái thau men, nếu có thể, một cái áo đi mưa cho anh ấy đi công tác, vài thước vải.”
“Nếu thế thì chi đi mua ngoài, các cửa hàng ngoài thiếu giống! Có nhiều thứ đẹp và tốt của mậu dịch bán giá ngoài hơn đây một chút…”
Chị Mênh hơi cáu. Tôi có cảm tưởng như chị cự tôi, coi tôi là… mậu dịch:
“Nếu thế có séc lại đi sắm ngoài à?”
Tôi đại thí:
“Gửi séc cho ngân hàng giữ hộ tiền mình.”
Chị Mênh cười tươi hẳn người lên:
“Ừ hay là gửi vào đấy, để ít ngày, ta lấy tiền ra lại mua hàng như thế gọn hơn.”
“Nhưng chị phải chờ sáu tháng.”
“Sáu tháng séc mới thành tiền à? Có mà hoá dại.”
“Thế chị rút sổ tay, lấy bút ra nào, ta bắt đầu…”
Chị Mênh như bỗng nhớ ra điều gì:
“Tôi nghe nói còn mấy cửa hàng nữa, cũng của mậu dịch gần đây.”
“Đúng. Một cửa nhàng ngũ kim có xe đạp và các thứ tương tự, không bao giờ mình dám nghĩ tới. Một cửa hàng bán buôn. Một cửa hàng, có cả áo đi mưa và chậu thau men đấy, nhưng cửa hàng bách hoá Hàng Bài thì tôi cũng đã có nhiều kinh nghiệm sống…
Người chị Mênh bỗng vẹo đi. Một đám đông đương ào lên xô đẩy chị như cái bọt trên làn sóng. Có tiềng thét ở cuối gian hàng: “Chết bỏ mẹ tôi rồi, nó rút mất cái bút Pác-cơ rồi!” Mấy anh bộ đội chạy theo hút đứa lưu manh. Tôi kéo vội chị Mênh ra phía cửa. Mặt chị tái hơn ban nãy. Chị hít không khí như người chạy việt dã thi về. Chúng tôi đi về phía Hàng Bài.
Cũng lại xe đạp chất đống bên hè trước cửa hàng bách hoá Hàng Bài. Cũng người ra vào như đi xem triển lãm. Giấy viết dở, bông xé tung vãi trên nền gạch. Người ngồi nghỉ chân ngay bực cửa. Có người đang giở cơm nắm ăn để chờ đến lượt mua hàng. Một chị có chửa lảo đảo đi ra, vịn tay ghi-đông xe đạp nôn thốc nôn tháo. Chị cố len từ sáng, nhưng đành không mua được thứ gì, mặt đỏ bừng như say rượu, áo nát nhàu vạt trước vạt sau.
Tôi đương nghĩ đến những cửa hàng thơm tho, đi lại thảnh thơi, tha hồ chọn ngắm. Đi mua sắm đôi lúc cũng là lúc hạnh phúc cho con người. Bỗng một anh cán bộ quen đập mạnh vào vai: “Về thôi, tôi khoẻ thế này mà có tướng còn định trèo qua đầu mình để được mua trước thì phải biết!”
Anh chỉ mấy bà Liên Xô đương tất tả đi ra:
“Anh xem, các bà này cũng đến chịu thua rồi.”
“Hàng dành riêng cho nước bạn?”
“Chắc là không thích, hay ở đấy không đủ mặt hàng?”
Một người đàn bà ngồi dưới đất nói xen vào:
“Tôi từ Bắc Ninh sang hai hôm rồi chưa mua được bốn thước vải láng, ăn chực nằm chờ thế này, còn sầu bằng vạn các bà ấy chứ?”
Chị Mênh đã có kinh nghiệm xông xáo hơn ban nãy. Chị lên gác, xuống nhà, dừng lại chỗ này, chỗ khác. Chị hỏi giá những người đã mua được vải đương căng ra giữa lối đi, hàng chục thước, làm vướng thêm người đang chen chúc. Một tay sổ, tay bút chì, chị ghi tên hàng, làm tính cộng, tính nhân. Chị bảo tôi:
“Thôi đành mua cả ở đây thôi. Tôi có khăn mặt, xà phòng rồi, cũng cứ thế mua thêm cho đủ séc.”
Nhưng việc đời lại không dễ dàng như tôi đã cảnh cáo chị một lần. Cửa hàng này, có lối làm việc khác bên Tràng Tiền một chút. Nghĩa là muốn mua thứ gì, phải nói với chị bán hàng ghi vào một cái bông xong rồi đưa lên gác giả tiền, xong rồi lại cầm cái bông ấy xuống nhà đưa cho chị bán hàng.
Hơn một tiếng đồng hồ, chúng tôi bị thúc đẩy, có lúc bị ép dẹp như tàu lá. Đến khi chị Mênh quyết định xong, vừa đưa chứng minh thư ra để làm séc, thì kẻng cũng vừa báo nghỉ.
Một anh đứng cạnh chúng tôi, gạt mồ hôi trán, nói như tuyệt vọng:
“Đời cứ như là đánh số. Chỉ còn vài thước loại này thôi, không mua kịp bây giờ là hết đấy.”
Tôi chưa kịp hiểu, thì anh chàng đã nháy mắt tôi một cái:
“Có gì đâu, hàng này ít mà lại tốt, lại rẻ ghê! Em định nhờ các anh cán bộ lúc mua hàng thì mua thêm cho em mỗi người vài thước. Ngoài kia đã có khối anh chờ, lại bán cho các hiệu may làm lót đấy mà, kiếm chác tí ti thôi!”
Tôi nhìn chị Mênh như người ngái ngủ. Kinh nghiệm của tôi mấy lần trước đây cũng không giúp ích gì cho chị.
Trên đầu giường chị Mênh có mấy quả cam. Đó là quà của các bạn nghe tin chị ốm đến thăm. Mặc dù ốm, chị cũng phải kể lại lần thứ một trăm tai nạn vừa xảy ra cho chị. Ở nhà hàng Bách hoá về chị choáng váng vì tim yếu, suýt ngất đi, phải bỏ cơm chiều. Cái xe đạp chị mượn của người quen không kịp khoá, đã bị kẻ gian lấy lúc nào không biết. Bây giờ còn lại hai cái séc. Chị tính ai cần thì chị bán rẻ đi. Để vay thêm tiền đền vào cái xe đã mất. Một anh bạn miền Nam nghe xong nổi đoá ngay:
“Tôi đã nói chị không tin. Lần trước chị có xem báo Văn nghệ mục ‘Nụ cười’ đó chớ? Chính tôi viết cái bài anh cán bộ bắt buộc phải mua thuốc bổ thận là thứ mà thận anh ta không cần đến, cho đủ số tiền ghi trong séc. Chính tôi đó chớ ai?”
Một anh cán bộ vừa đi Cải cách Ruộng đất về có mặt ở đấy cũng an ủi chị:
“Tất cả chúng ta đều trải qua cái đó. Tất cả khách hàng và anh em các cơ quan, chị cứ hỏi bất cứ ai cũng có một chuyện vui, buồn về mậu dịch.” Anh chỉ vào ngực mình:
“Mà chính tôi đây cũng đã từng hút thuốc lá Bảo mốc của mậu dịch bán rẻ cho cán bộ, hồi đi học ở trường Cải cách. Tôi suýt ốm ho, bỏ công tác vì thiếu thuốc phải hút bừa cái đó.”
Một anh mặt đăm chiêu nói có vẻ xót xa:
“Tôi cũng có nghe rất nhiều người nói đến cái sự bán hàng hỏng mốc cho cán bộ. Có một dạo chúng ta được ăn bánh mì chua, bán rẻ cho các cơ quan buổi sáng. Người ta bảo bột mì làm bánh là bột ở kho bị giột, bán lại làm cho các nhà thầu làm. Một giáo sư kể chuyện là ông ta ăn phải sữa hỏng cũng đau ruột liền 3 tháng. Lại có anh than phiền là chưa được biết mùi bơ là gì, thì bơ đã hỏng rồi, nghe nói phải đem nấu xà phòng."
Chung quanh giường người ốm vì Bách hoá, bây giờ mạnh ai ấy nói. Không khí có vẻ như tố khổ. Có người nói đến thuốc lá "Đại tiền môn" không hiểu sao đầu tiên bán 9 trăm, rồi một nghìn mốt, bây giờ lại phải mua lẻ đến 3 nghìn rưởi một gói. Có người thắc mắc: đến cửa hàng mậu dịch ngũ kim thấy có bầy xe đạp "Mercier", không hiểu bầy ra làm gì mà lúc thấy đông người hỏi lại đâm cuống lên rồi vội cất biến đi. Có người len vào Bách hoá mua không được vải, bực mình lên tận chợ Đồng Xuân, thì các chị bán hàng tấm lại buộc mình cứ một thước vải xanh Trung Quốc lại phải mua kèm theo một thước vải hoa to bằng cái bát, để làm gì không biết?
Mọi người đuơng tranh nhau nói thì một chị đánh máy trong một cơ quan phát biểu:
"Tôi tưởng không phải chỉ có khách hàng là ‘nạn nhân’ của những việc ta vừa kể. Cho được công bằng ta nên nghĩ đến những người đau khổ khác. Công tác đánh máy của tôi đã mệt, nhưng so với các chị bán hàng vẫn thường đo vải láng đen Nam Định ở Bách hoá thì tôi phục quá. Cứ suốt ngày không một lúc hở tay, chỉ có một mình mà đo, cắt, tính vào sổ, cho hàng ngàn người xúm quanh hò hét, như vậy thì phát điên lên được."
Tôi cũng chợt nhớ ra người đàn bà "anh dũng" ấy. Tôi đã từng thấy chị giữa giờ kẻng nghỉ tay ăn cơm, mặt thất sắc và uể oải. Không biết chị có tính nhầm đến nỗi phải đền vào lương tháng của chị không? Không biết chị ăn cơm sau buổi bán hàng có nhạt miệng không?
Tự nhiên tôi muốn biết tên chị quá. Tôi suy nghĩ: "Giá một ngày kia, nghe tin chị được huân chương thì tôi rất vui lòng".
Chị Mênh, chừng khát lắm, ra hiệu cho bạn bè xin cốc nước. Anh bạn Nam bộ ban nãy chợt gõ vào đầu một cái:
"Tôi phải viết chuyện này mới được."
Không đợi mọi người hỏi lại, anh tiếp theo luôn:
"Tôi sẽ viết chuyện một người mang séc đi mua hàng mậu dịch. Bắt đầu thì anh rất yêu đời, hăng hái. Nhưng sau một cuộc đấu tranh liên tiếp mấy ngày liền, sau một cuộc chen chúc, tính toán, ảnh hưởng đến cân não, rút cuộc anh cũng mua được hàng mậu dịch. Nhưng rồi anh ốm, ốm gần chết nữa, và nằm trên giường, liệt vị, anh ngắm nhìn những hàng hoá mà anh đã mua bằng tiền lao động của mình, những thứ đồ dùng không cần thiết gì cho đời anh cả."
Tôi nối lời anh:
"Tôi cho sống ở đời mà lại đánh mất xe đạp của người khác như chị Mênh, còn khổ hơn là kẻ mua được những thứ hàng mà mình không thích."
Trúc Lâm và H.S.
Không phải chuyện cười – Chung quanh tờ Nhân văn
Cho tôi cảm tưởng
Trong một nhà nọ ở phố K.T., anh bạn tôi đương say mê đọc báo Nhân văn thì chợt cửa mở, đồng chí hộ khẩu vào chơi. Qua chén trà, điếu thuốc, đồng chí hộ khẩu cất cao giọng:
"Nhà này cũng đọc báo Nhân văn à?"
Không đợi trả lời, đồng chí hộ khẩu đã oang oang:
"Đọc xong, ngày mai cho tôi cảm tưởng nhé!"
Nói rồi đi ra thẳng.
Anh bạn tôi ngồi bóp trán suy nghĩ mãi về câu nói đó, và cuối cùng đánh diêm châm đốt tờ báo cho được… bình yên vô sự.
Có mà chết sớm…
Một ông khách vào hiệu sách ở Hồng Quảng.
"Ở đây có báo Nhân văn không ạ?"
"Không ạ."
"Thấy nói báo ấy viết hay lắm, sao ông không đại lý?"
Ông chủ hiệu vuốt sợi ria mép thủng thẳng:
"Bán báo gì chứ bán Nhân văn có mà… chết sớm!"
Lộ ra thì tao chết
Mười năm nay tôi mới gặp T. Gặp nhau mừng mừng, tủi tủi.
Bỗng T. cất giọng:
"Mày dám viết cho Nhân văn cơ à?"
Câu nói của T. làm tôi suy nghĩ. Rồi T. chậm rãi:
"Tiếc quá tao không được đọc số 1."
"Khó gì, về tao gửi xuống cho."
T. xua tay nói vội:
"Chớ, chớ! Lộ ra thì tao chết. Ở đây đọc cũng phải 'bem’ đấy."
Đừng đọc, báo phản động đấy
Chị cán bộ phụ trách khu phố đến từng nhà làm công tác dân vận. Hết chuyện ta ra chuyện người, thao thao bất tuyệt.
Rồi chị ra bàn lục lọi, một lát giơ cao tờ Nhân văn nói:
"Chết! Đừng đọc báo này, báo phản động đấy!"
Bà chủ nhà thản nhiên:
"Thế à? Em tưởng chỉ có trong Nam mới có báo phản động thôi chứ?"
"Không phản động hẳn nhưng mà là do một số văn nghệ sĩ đại bất mãn, địa vị, bực tức cá nhân viết đấy mà, có hay gì đâu cơ chứ!"
Bà chủ nhà nhịn cười mời khéo chị cán bộ ra cửa.
Sang nhà bên cạnh, hỏi dò mới vỡ lẽ ra: bà chủ nhà vừa rồi là vợ ông T., một người trong Ban Biên tập báo Nhân văn.
Có oái ăm không !?
Vậy thì… ghét hay yêu?
Cũng chưa oái oăm bằng cái việc báo gửi qua bưu điện cứ thường bị mất. Bạn đọc, nhất là các anh em bộ đội đóng ở nơi xa hay viết về thư toà soạn phàn nàn. Rằng: "Toà báo không gửi báo cho chăng?" Rằng: "Thư từ và sách báo là món quà tinh thần của những người ở xa Thủ đô tráng lệ, vậy mà sao bưu điện không chú trọng cứ lơ là như thế?"
Có một ông bạn bảo: "Có khi anh em bưu điện yêu Nhân văn nên giữ lại để đọc đấy".
Lại có một ông bạn bảo: "Có khi anh em họ ghét báo Nhân văn nên huỷ đi đấy!"
Vậy thì ghét hay yêu?
█
Báo Nhân văn số 5
Báo văn hoá, xã hội - Chủ nhiệm: Phan Khôi - Thư ký toà soạn: Trần Duy - Trụ sở: 43 Tràng Tiền, G.N. (Giây nói 21.17) - Khổ 38 x 55, 6 trang - Số 5, ra ngày 20-11-1956. In tại nhà in Xuân Thu. Mỗi số: 300 đ.
Mục lục
- Nguyễn Hữu Đang - Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào?
- Người quan sát - Bài học Ba Lan và Hung-ga-ri
- Trần Duy - Góp ý kiến về phần tự do dân chủ trong Nghị quyết T. Ư lần thứ mười
- Chu Ngọc - Nguyễn Sơn, người đi đầu trong đuờng lối văn nghệ rộng rãi
- H. L. - Không có lý gì mà không tán thành trăm hoa đua nở
- T. Duy – Tranh châm biếm
- Việc Sở Báo chí trung ương thi hành kỷ luật báo Nhân văn là bất hợp pháp
- Tin ngắn - Nhiệt liệt chào mừng thủ tướng Chu Ân Lai sang thăm Việt Nam
- Ý kiến bạn đọc X. M. và L. N. về việc báo Nhân dân phê bình báo Nhân văn
- Hàn Phi Tử - Yêu nên tốt, ghét nên xấu (Ôn cũ biết mới)
- Quảng cáo: Báo Nhân văn cần thêm nhiều đại lý ở các tỉnh
- Châm Văn Biếm - Thi sĩ máy (truyện vui)
- Trần Dần - Tôi đứng mênh mông chỉ mặt "ngài" Ngô (thơ)
- Hoàng Tố Nguyên - Tiếng hát quê hương (thơ)
- Quảng cáo cho tập thơ Cửa biển và Nhân văn số 6
- Trần Duy - Thành thật đấu tranh cho tự do dân chủ
- Cao Nhị - Nửa tháng liên hoan phim Liên Xô: Mấy bộ phim dở
- Thanh Tình và Bút Chì - Không phải chuyện cười
- Quảng cáo cho Đất mới tập 1
- Tranh châm biếm của Tr. Hải An
Nguyễn Hữu Đang
Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào?
Hiến pháp 1946 của ta, sau khi được Quốc hội thông qua liền bị hoãn thi hành vì tình hình trong nước nghiêm trọng. Nhưng từ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, tình hình miền Bắc, mặc dầu còn có nhiều khó khăn kinh tế và cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất gay go phức tạp, cũng phải coi là đã trở lại bình thường rồi. Vậy chúng ta có thể đề ra hoặc việc thi hành Hiến pháp 1956 sửa đổi lại, hoặc việc đặt một Hiến pháp mới.
Có những người nói: „Ta hãy chờ thống nhất xong đất nước, khi đó sẽ có Quốc hội mới, Hiến pháp mới. Miền Nam đã đặt Hiến pháp riêng, nếu miền Bắc cũng lại ban bố Hiến pháp riêng nữa thì công cuộc thống nhất đất nước càng khó khăn“.
Tôi không biết những người nói thế thành thực tới mức nào. Tôi chỉ biết Đảng, Chính phủ và toàn dân miền Bắc đã đồng ý với nhau nhận định là cuộc đấu tranh thống nhất sẽ lâu dài. Nếu trong thời gian lâu dài đó mà miền Bắc không ban bố một Hiến pháp tạm thời nghĩa là không có một nền tảng cho cái lâu đài pháp trị xây dựng lên trên thì mọi việc còn xộc xệch. Như thế thì củng cố làm sao được miền Bắc để tranh thủ miền Nam?
Nhất định phải ban bố Hiến pháp.
Toàn bộ một Hiến pháp thích hợp với hoàn cảnh miền Bắc ngày nay phải thế nào, tôi không bàn trong bài này. Ở đây tôi chỉ muốn cả quyết một điều là dù Hiến pháp sẽ được ban bố có nội dung thế nào đi nữa, cái phần bảo đảm tự do dân chủ của nó về căn bản vẫn không thể thay đổi so với Hiến pháp 1946. Vì đó là một điều kiện „không có không được“ của một chính thể dân chủ.
Hiến pháp 1946 ghi:
ĐIỀU THỨ 10: Công dân Việt Nam có quyền:
- Tự do ngôn luận
- Tự do xuất bản
- Tự do tổ chức và hội họp
- Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra ngoài nước
ĐIỀU THỨ 11: Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam. Nhà ở và thư từ của công dân Việt Nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật.
Hôm nay tôi nhắc lại vài điều của Hiến pháp 1946 hẳn có bạn nghĩ: Hiến pháp 1946 là cả một sự nhân nhượng chiến thuật với bọn Quốc dân Đảng Việt Nam được quân đội Quốc dân Đảng Trung Hoa giúp đỡ và những tầng lớp nhân dân mà đại bộ phận lúc ấy chưa ngả theo cách mạng. Mức độ của nó so với ngay hoàn cảnh nước ta năm 1946 cũng chưa đủ, huống nữa là so với hoàn cảnh nước ta ngày nay chính quyền nhân dân đã tiến những bước khổng lồ. Ngày nay lực lượng công, nông đã lớn mạnh, lẽ tất nhiên phải chuyên chính hơn chứ không thể lui lại trình độ gần với dân chủ tư sản như năm 1946.
Thật không còn tư tưởng nào phản dân chủ hơn tư tưởng đó. Và nguy hiểm nhất là nó lại khoác áo “lập trường cách mạng”, lớn tiếng “vì công nông”.
Nghĩ như thế là không nắm vững cái kim chỉ nam trong mọi vấn đề chính sách và pháp trị là: dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ địch.
Nắm vững phương châm đó, ta thấy rằng những tự do dân chủ là ban bố cho các tầng lớp nhân dân (gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc) thì càng ngày càng phải được tăng cường, mở rộng theo sát bước tiến của cách mạng.
Hãy lấy trình độ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa làm mức sẽ tiến tới của chúng ta. Có phải trình độ cách mạng ở Trung Hoa năm 1954 cao hơn trình độ cách mạng ở Việt Nam 1946 thì quyền tự do dân chủ trong Hiến pháp Trung Hoa 1954 thu hẹp hơn trong Hiến pháp Việt Nam 1946 không?
Không!
Hiến pháp Trung Hoa 1954 ghi:
ĐIỀU 87: Công dân nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đều có quyền tự do ngôn luận, xuất bản, hội họp, tổ chức tuần hành thị uy. Nhà nước cung cấp những điều kiện vật chất thuận lợi cần thiết và đảm bảo cho công dân hưởng thụ những quyền kể trên.
ĐIỀU 89: Thân thể người công dân Trung Hoa là bất khả xâm phạm. Bất luận công dân nào, nếu không có quyết định của Pháp viện Nhân dân và phê chuẩn của Viện kiểm soát Nhân dân, thì không thể bị ai bắt giam được.
ĐIỀU 90: Công dân nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa được pháp luận bảo đảm nhà cửa không bị xâm phạm, thư từ được giữ bí mật. Công dân nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa có quyền được tự do cư trú và đi lại.
Đọc đoạn trên này ta thấy Hiến pháp Trung Hoa 1954 buộc Nhà nước phải cung cấp những điều kiện vật chất cần thiết để đảm bảo cho công dân hưởng thụ đầy đủ những quyền tự do dân chủ. Như thế là vừa rộng rãi hơn vừa thiết thực hơn Hiến pháp Việt Nam 1946. Điều đó chứng tỏ chế độ càng tiến bộ, dân chủ càng mở rộng.
Liên hệ những điều bảo đảm tự do dân chủ trong Hiến pháp Việt Nam 1946 và Hiến pháp Trung Hoa 1954 với thực tế miền Bắc bây giờ chúng ta thấy gì?
Chúng ta thấy các quyền tự do dân chủ bị hạn chế quá nhiều. Và chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh nghị quyết của hội nghị lần thứ 10 của Trung ương Đảng Lao động đã nhấn mạnh sự cần thiết phải mở rộng tự do dân chủ.
Nhưng tại sao việc đó mới đề ra chứ chưa thực hiện được phần nào mà đã lại có ngay một luồng dư luận chống đối, hình như muốn chuyên chính hơn nữa? Sự thay đổi đột ngột ấy làm cho quần chúng hoang mang, lo ngại.
Chuyên chính với địch thì bao nhiêu cũng chưa đủ và từ trước tới nay có phút nào chúng ta buông lỏng đâu mà phải hô hào? Còn chuyên chính với nhân dân thì cần xét kỹ. Nếu không, hậu quả sẽ tai hại lớn. Nguyên nhân sâu xa của những biến cố ở Ba-lan và Hung-ga-ri là vì thiếu dân chủ, tại sao lại hiểu ra là vì thiếu chuyên chính?
Nhưng dù biện luận thế nào đi nữa thì cũng không thể vứt bỏ được cái nguyên tắc mà ông Lưu Thiếu Kỳ đã nêu ra trong bản Báo cáo về Hiến pháp đọc tại phiên họp đầu khoá thứ nhất của Quốc hội Trung Hoa ngày 15-9-1954:
“Chế độ chính trị của chúng ta tập trung đến cao độ nhưng sự tập trung cao độ ấy căn cứ trên một nền dân chủ cao độ”.
Nói chi dân chủ cao độ, ngay dân chủ trung bình ta cũng còn phải bồi bổ thềm nhiều, thế mà lại muốn chuyên chính hơn nữa thì không có lợi.
Người quan sát
Bài học Ba Lan và Hung-ga-ri
Tình hình Ba Lan và Hung-ga-ri như thế nào các báo đã nói nhiều, trong bài này chúng ta chỉ muốn nêu lên một số bài học để chúng ta cùng suy nghĩ, bàn bạc.
Bài học thứ nhất: Phải cương quyết và mạnh bạo sửa chữa những sai lầm kịp thời và đúng mức, cụ thể là nâng cao đời sống của nhân dân, mở rộng tự do dân chủ.
Có bạn nói: ở Ba Lan bà Hung-ga-ri xây dựng chế độ dân chủ nhân dân đã hơn 10 năm, sao lại còn có thể xảy ra những chuyện đáng tiếc như thế?
Có bạn còn đi xa hơn đến chỗ nghi ngờ cả bản chất của chế độ dân chủ trong một số nước thuộc phe ta.
Sự thực như thế nào?
Sự thực là bản chất của chế độ dân chủ, vẫn đúng với bản chất của chủ nghĩa Mác, nhưng trong một thời gian khá dài sự tôn sùng Sta-lin, và những sai lầm của Sta-lin ảnh hưởng sâu xa đến một số đông những đảng cộng sản và công nhân trên thế giới, đã vi phạm nghiêm trọng đến đời sống và quyền tự do của con người.
Chủ trương hộc tiến lên xã hội chủ nghĩa quá chú trọng phát triển công nghiệp nặng, ép buộc việc thi đua cơ khí hoá nông nghiệp, quá coi nhẹ về bồi dưỡng đời sống của nhân dân lao động và các tầng lớp đã ảnh hưởng rất nhiều đến sinh hoạt của quần chúng. Do đó quần chúng bất mãn mỗi ngày một nặng.
Lý luận sai lầm cho rằng càng tiến tới chủ nghĩa cộng sản, đấu tranh giai cấp càng quyết liệt đã dẫn đến những kết quả tai hại: cảnh giác quá trớn, chuyên chính với cả đảng viên và quần chúng, vi phạm trầm trọng vào nên pháp trị xã hội chủ nghĩa. Nhiều đảng viên ưu tú bị gạt ra khỏi Đảng, thậm chí bị giết, nhiều quần chúng vô tội bị bắt oan. Tự do dân chủ bị hạn chế, chuyên chính bừa bãi là một hiện tượng phổ biến. Do đó gây một tình trạng căng thẳng "làm giảm bớt sự hấp dẫn của chủ nghĩa của Đảng" (Lời tự phê bình của Ra-ko-si) thậm chí gây công phẫn trong quần chúng. Trong bài diễn văn đọc tại cuộc mít tinh ngày 25-10-1956 ở Vác-sô-vi để chào mừng Ban Chấp hành Trung ương mới và hoan nghênh những nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 8 đồng chí Gô-mun-ca đã vạch rõ những sai lầm đó như sau:
"Rất nhiều tệ xấu xa, bất công, chán nản đã chồng chất trong những năm vừa qua. Tư tưởng của chủ nghĩa xã hội tôn trọng tinh thần tự do của con người, tôn trọng những quyền của người công dân trên thực tế đã bị vi phạm nghiêm trọng, lời nói không đi đôi với việc làm."
Đời sống nhân dân không được cải thiện đúng mức, tụ do dân chủ bị vi phạm trầm trọng, đó là những khuyết điểm chính của hai Đảng Ba Lan và Hung-ga-ri những năm vừa qua, và đồng thời cũng là nguyên nhân sâu xa của những vụ biến động đáng tiếc trong vòng mấy tháng nay.
Từ sau Đại hội thứ XX những sai lầm đó được phơi bầy ra ánh sáng.
Ra-kô-si lãnh tụ đảng Hung phải từ chức. Gô-mun-ca và một số đảng viên khác ở Ba Lan được phục hồi, những sai lầm trong công tác thành thị và nông thôn bắt đầu được sửa chữa.
Nhưng tốc độ và mức độ sửa chữa không kịp với đòi hỏi của tình thế và yêu cầu của quần chúng nên càng thúc đẩy sự công phẫn và phong trào đấu tranh tự phát của quần chúng. Thái độ thiếu mạnh bạo và thiếu kiên quyết trong việc sửa chữa sai lầm của những người lãnh đạo đã tạo một miếng đất tốt cho những phần tử khiêu khích, và những phần tử địch lợi dụng phá hoại.
Cho nên muốn ngăn ngừa phong trào đấu tranh tự phát của quần chúng và chặt đứt bàn tay bẩn thỉu của địch, trước hết phải cương quyết và mạnh bạo sửa chữa những sai lầm kịp thời và đúng mức, cụ thể là nâng cao đời sống của nhân dân và thực sử mở rộng tự do dân chủ.
Bài học thứ hai: Dân chủ phải đi đôi với chuyên chính nhưng không thực sự mở rộng dân chủ thì không thể chuyên chính đúng và tốt được.
Có bạn nói: Sở dĩ có những vụ biến động như ở Hung-ga-ri là vì quá mở rộng dân chủ, nặng dân chủ, nhẹ chuyên chính.
Ai cũng biết một trong những khuyết điểm lớn của những người lãnh đạo Hung-ga-ri những ngày vừa qua là không kịp thời trấn áp kiên quyết những phần tử phản cách mạng.
Nhưng vấn đề không phải giản đơn là quá nặng nề về dân chủ, quá nhẹ về chuyên chính. Lý luận giản đơn như thế rất có thể dẫn đến những hành động sai lầm.
Vấn đề phải suy xét cho kỹ lưỡng hơn. Tình hình cụ thể là như thế nào?
Như trên chúng tôi đã trình bày cũng như qua các báo các bạn đã thấy rõ tình hình trong những năm vừa qua là dân chủ bị vi phạm trầm trọng và chuyên chính được phát triển bừa bãi.
Mở rộng dân chủ là một yêu cầu bức thiết đề quần chúng có thể tham gia vào việc sửa chữa sai lầm và kiểm soát những cơ quan của Nhà nước.
Đáng tiếc là việc mở rộng dân chủ không kịp thời đã dẫn đến tình trạng lộn xộn đấu tranh tự phát của quần chúng. Trong tình trạng đó kẻ địch rất dễ lợi dụng để che giấu bộ mặt phản động của chúng. Không vạch mặt được kẻ địch thì khó lòng mà sử dụng được hết lực lượng của toàn dân dốc vào việc trấn áp phản cách mạng. Muốn chuyên chính với địch phải cô lập địch, muốn cô lập địch không thể không mở rộng dân chủ, thoả mãn những yêu cầu của quần chúng.
Cho nên vấn đề không phải đơn thuần là nhẹ về chuyên chính mà còn là không chủ động mở rộng và lãnh đạo phong trào dân chủ của quần chúng, lâm vào tình trạng bị động, đẻ ra rất nhiều khó khăn trong việc chuyên chính đối với địch. Đến đây, chúng tôi xin phép mở một dấu ngoặc để nói rõ thêm về vấn đề dân chủ và chuyên chính vì đó là một vấn đề cực kỳ quan trọng.
Có người nói: một mặt đưa ra tự do dân chủ, một mặt lại đưa ra chuyên chính, thật khó hiểu.
Như thế thì còn gì là dân chủ nữa hay không? Nói cái gì thì nói dứt khoát một thứ chứ!
Xin trả lời, dân chủ và chuyên chính là hai mặt không thể tách của một vấn đề, và là một trong những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác.
Vấn đề không phải là bỏ chuyên chính hay là để. Vấn đề đặt ra là hiểu và thực hiện chuyên chính như thế nào.
Trong một thời gian khá dài, một số người đã hiểu vấn đề chuyên chính một cách không đúng.
Họ không hiểu rằng chuyên chính chỉ là một phương pháp để bảo đảm dân chủ, và chuyên chính là chuyên chính với địch, không cho phá hoại để củng cố và phát triển dân chủ, chứ chuyên chính không bao giờ nhằm hạn chế tự do dân chủ của nhân dân, vi phạm đến luật lệ của Nhà nước.
Chúng tôi nhắc lại, chuyên chính là chuyên chính với địch, tuyệt đối không chuyên chính với nhân dân. Đối với những sai lầm, lệch lạc của nhân dân chỉ có đấu tranh và giáo dục và đó là vấn đề nội bộ.
Nếu không hiểu như thế rất dễ lại rơi vào những sai lầm đau xót, vi phạm tự do dân chủ, vi phạm sinh mệnh con người như trong thời đại Sta-lin trước.
Cho nên, chỉ buông thõng một câu "tăng cường chuyên chính" không thôi có thể rất nguy hiểm, nhất là đối với hoàn cảnh nước ta, vì hoàn cảnh Hung-ga-ri và hoàn cảnh nước ta có những điểm khác nhau. Cơ sở của Đảng Lao động Việt Nam trong quần chúng qua hơn 20 năm đấu tranh cách mạng trong đó có 10 năm kháng chiến có thể là vững chãi hơn cơ sở của Đảng Lao động Hung-ga-ri.
Lực lượng địch ở miền Bắc Việt Nam không thể máy móc đem so sánh với lực lượng địch ở Hung-ga-ri v.v... Ý thức tự do dân chủ của quần chúng Việt Nam qua bao nhiêu năm đô hộ và ảnh hưởng sâu xa của phong kiến chắc chắn là không thể bằng một nước đã có tư bản và công nghiệp như Hung-ga-ri. Cho nên áp dụng máy móc kinh nghiệm Hung-ga-ri, đánh giá quá cao một vài lệch lạc của quần chúng, nhìn nhận địch không đúng có thể dẫn đến những kết quả khốc hại. Trong khi áp dụng kinh nghiệm Ba Lan, Hung-ga-ri, không thể quên những kinh nghiêm đau xót của Cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức.
Vấn đề đặt ra bây giờ theo chúng tôi nghĩ là phải hết sức đảm bảo mở rộng dân chủ, hạn chế chuyên chính bừa bãi, tập trung chuyên chính vào địch. Luật pháp dân chủ nhân dân cần phải được cải tiến và áp dụng triệt để.
Bài học thứ ba: Đấu tranh củng cố và mở rộng tự do dân chủ theo đúng tinh thần chủ nghĩa Mác là một cuộc đấu tranh trường kỳ và gian khổ nhưng tất thắng, đánh tan mọi tệ lậu xã hội và mọi âm mưu phá hoại của địch.
Từ sau khi phát hiện ra tập đoàn phản động Be-ri-a và những sai lầm của Sta-lin, Hung-ga-ri, Ba Lan đều bắt đầu có sửa chữa. Một phong trào chống sùng bái cá nhân, chống vi phạm nền pháp trị xã hội chủ nghĩa, đòi mở rộng tự do dân chủ lan tràn khắp nơi. Nhưng phong trào vấp phải sức bảo thủ của những “lãnh tụ bất lực, phạm những sai lầm nghiêm trọng và không làm tròn nhiệm vụ" (Gô-mun-ca).
Cuộc đấu tranh chống tập đoàn Rakosi ở Hung là một quá trình lâu dài và gian khổ. Cuộc đấu tranh của Gô-mun-ca ở Ba Lan cũng vậy.
Trong cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ ấy bọn đế quốc hí hửng chắc chắn sẽ phá vỡ được chế độ dân chủ nhân dân của chúng ta.
Lợi dụng một số sai lầm của những người lãng đạo Ba Lan chúng đã len bàn tay khốn nạn vào vụ Pô-dơ-nan.
Lợi dụng một số sai lầm của Liên Xô đối với Ba Lan, chúng đã cố tìm cách khoét sâu mâu thuẫn để chia rẽ Ba Lan và Liên Xô.
Lợi dụng những sai lầm nghiêm trọng của tập đoàn Ra-kô-vi và một số sai lầm cả Liên Xô ở Hung-ga-ri chúng đã tìm cách gây thành những vụ bạo động, âm mưu bóp chết nền dân chủ ở Hung-ga-ri và phá vỡ tình hữu nghị không gì lay chuyển nổi của phe xã hội chủ nghĩa.
Nhưng chúng đã thất bại thảm hại. Anh em công nhân tham gia cuộc biểu tình ở Pô-dơ-nan đã vạch mặt lũ khiêu khích và phản động.
Sự đoàn kết giữa Ba Lan và Liên Xô trên cơ sở bình đẳng và chủ quyền độc lập, uốn nắn những sai lầm của tư tưởng dân tộc lớn càng vững chắc hơn trước.
Bọn phản động ở Hung-ga-ri đã bị nhân dân Hung-ga-ri tiêu diệt với sự giúp đỡ của Hồng quân Liên Xô. Sự tương trợ nồng nhiệt của các nước anh em với Hung-ga-ri là một cái tát mạnh vào mặt Ai- xen-hao và bè lũ.
Những hiện tượng trên cho chúng ta ta một bài học lớn:
Công cuộc đấu tranh dân chủ hoá xã hội chủ nghĩa là một cuộc đấu tranh lâu dài và gay go chống những tư tưởng lạc hậu bảo thủ của nếp lãnh đạo cũ và chống những âm mưu phá hoại của địch nhưng nhất định là thành công, nhất định là xây dựng được một chế độ tốt đẹp thoả mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.
Qua cơn sốt vỡ da, chủ nghĩa cộng sản lớn mạnh, hệ thống xã hội chủ nghĩa sẽ lớn mạnh.
Chúng ta có đầy đủ cơ sở để tin tưởng và phần khởi đem hết khả năng giúp Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đấu tranh chống mọi tệ lậu của xã hội, mọi âm mưu phá hoại, sửa chữa sai lầm, xây dựng một miền Bắc thực sự dân chủ và vững mạnh làm nòng cốt cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.
Lịch sử đương viết những trang lớn.
Trần Duy
Góp ý kiến về phần tự do dân chủ trong Nghị quyết T. Ư lần thứ mười
(…) đã họp Hội nghị lần thứ X và quyết định trong thời gian trước mắt nhiệm vụ của toàn Đảng là kiên quyết sửa chữa sai lầm trong Cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức, đồng thời có đề cập, thảo luận đến ba vấn đề quan trọng:
- Mở rộng dân chủ, đảm bảo quyền tự do dân chủ và tăng cường chế độ pháp trị dân chủ;
- Cải thiện đời sống công nhân, bộ đội, cán bộ và viên chức;
- Đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hoà bình.
Thông cáo của Hội nghị lần thứ 10 một lần nữa chứng tỏ rằng Đảng và Chính phủ ta quan tâm đến đời sống của nhân dân, chính quyền ta là một chính quyền của dân, chế độ ta là một chế độ thực sự dân chủ.
Chúng ta phải khẳng định rằng ngoài Đảng Lao động Việt Nam và chủ nghĩa Mác-Lê không còn có một tổ chức đảng phái và một lý luận tiền phong nào có thể lãnh đạo dân ta kháng chiến thắng lợi, tiến hành cách mạng dân tộc, hoàn thành độc lập được.
Do đó chúng ta, những phần tử yêu nước, tha thiết với hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, không có một lý do nào không triệt để ủng hộ Đảng, xây dựng chế độ.
Khi đã xem Đảng là Đảng của chúng ta, chế độ do chúng ta xây dựng, chúng ta là chủ nhân ông của đất nước, thì việc đóng góp cũng như việc đấu tranh để sửa chữa những sai lầm, bổ khuyết những thiếu sót của lãnh đạo, cũng là một trách nhiệm của chúng ta.
Việc mở rộng dân chủ đã đề ra trong thông cáo là một sự kiện đáng để cho chúng ta hoan nghênh phấn khởI, tin tưởng.
Nhưng theo ý chúng tôi, một vấn đề rộng lớn, then chốt của chế độ, một nguyên tắc căn bản của cách mạng, như việc mở rộng tự do dân chủ cần phải được xem là quan trọng cấp thiết bậc nhất trong lúc này và cần được bàn đến một cách rộng rãi đầy đủ hơn nữa.
Trong thời gian vừa qua chúng ta đã phạm một số sai lầm nghiêm trọng. Một trong những nguyên nhân chính là vì thiếu tự do dân chủ. Do thiếu tự do dân chủ nên nhân dân không dám mạnh dạn phê bình xây dựng lãnh đạo, kiểm tra công tác của Chính phủ và của Đảng, kịp thời phát hiện và uốn nắn những lệch lạc sai lầm. Do đó mức độ sai lầm kéo dài và thành trầm trọng.
Chúng ta không thể phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng trong việc mở rộng tự do dân chủ.
Chúng ta càng phải công nhận sự chuyên chính để bảo vệ thành quả của cách mạng do toàn thể nhân dân xây dựng.
Nhưng trong lúc tình hình thiếu dân chủ là một tình hình phổ biến, chưa nói đến mở rộng dân chủ mà đã vội quá nhấn mạnh vào vấn đề chuyên chính là một điều không nên vì nó có thể gây những hiểu lầm tai hại trong quần chúng, và mở cho những tệ quan liêu, bảo thủ phát triển, ảnh hưởng không tốt đến công tác sửa sai của Đảng và Chính phủ.
Gần đây có những ý kiến cho rằng không những chuyên chính với địch, mà còn phải chuyên chính với những tư tưởng lạc hậu của nhân dân. Đó là một lầm lẫn nguy hiểm. Trước hết nó lầm lẫn ở chỗ chĩa mũi dùi chuyên chính vào cả hàng ngũ nhân dân.
Sau nữa nó lầm lẫn ở chỗ muốn giải quyết vấn đề tư tưởng bằng biện pháp hành chính thô bạo.
Trong bản báo cáo về “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” đồng chí Lục Định Nhất viết:
“Đối với tư tưởng duy tâm lạc hậu trong nội bộ nhân dân cần phải đấu tranh, sự đấu tranh này cũng sâu sắc nhưng nó xuất xuất phát từ đoàn kết, nhằm khắc phục lạc hậu, tăng cường đoàn kết, đối với vấn đề tư tưởng nếu muốn dùng biện pháp mệnh lệnh hành chính để giải quyết thì không có hiệu quả” (đăng trong Nhân dân ngày 30-09-1956).
Nói chuyên chính là nói dùng pháp lý và hành chính để đàn áp quân thù chống phá cách mạng. Còn việc đấu tranh tư tưởng không thể gọi và dùng chuyên chính được.
Việc tuyệt đối tin tưởng ở chủ nghĩa Mác–Lê là đúng, nhưng chuyên chính bằng cách dùng hành chính và pháp lý bắt mọi người phải nghĩ một chiều, không công nhận một phương pháp tư tưởng nào khác, lại là một việc trái với nguyên tắc chủ nghĩa Mác–Lê, là độc đoán trong lĩnh vực tư tưởng.
Dù chúng ta bất đồng với nhau về xu hướng nghệ thuật, phương pháp tư tưởng, mà chỉ dùng báo chí sách vở đấu tranh hợp pháp thì không thể nào dùng chuyên chính nghĩa là dùng pháp lý và hành chính để ngăn cấm hay đàn áp những xu hướng khác nhau ấy được.
Không có một hiến pháp dân chủ nhân dân hay xã hội chủ nghĩa nào lại cho phép một tổ chức hay một cá nhân nào có quyền quyết định theo chủ quan của mình rằng tư tưởng này là đúng, là chính thống, tư tưởng kia là sai, là đồi truỵ, khi chưa có sự bàn cãi tranh luận rõ ràng, và dùng biện pháp hành chính pháp lý để ngăn cản đàn áp.
Việc tiến hành Cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức vừa qua đã cho chúng ta một bài học đau xót. Tuyệt đối không nói đến chuyên chính với địch đi đến chỗ sơ hở mất cảnh giác là nguy hiểm, nhưng nói đến chuyên chính mà vô tình hay cố ý dẫn đến kết quả hạn chế tự do dân chủ của nhân dân, cảnh giác quá trớn, đẩy bạn sang thù lại là một việc nguy hiểm hơn.
Không có một người nào trong chúng ta yêu cầu tự do dân chủ đề muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm, làm tổn thất đến quyền lợi của chế độ, đến hạnh phúc của nhân dân, chính là của mình, của vợ con mình!
Không có một người nào trong chúng ta yêu cầu tự do dân chủ để truyền bá những tư tưởng phản động truỵ lạc và đồi bại là những tư tưởng đã từng đầu độc và làm tê liệt cuộc sống con người chúng ta. Chúng ta theo Đảng làm cách mạng, chính là để cùng Đảng tiêu diệt những tư tưởng ấy. Chúng ta đòi tự do dân chủ cũng là để xây dựng con người, khôi phục quyền sống và phẩm giá của con người trong xã hội.
Trong thông cáo của Nghị quyết lần thứ X có đề ra nhiệm vụ của toàn Đảng là “Kiên quyết sửa chữa sai lầm”.
Khi nói đến kiên quyết sửa chữa sai lầm, thì cũng phải nhắc đến việc mạnh dạn và dũng cảm lắng nghe tất cả những tiếng nói phát hiện ra những sai lầm.
Do đó trong công tác sửa sai, việc mở rộng dân chủ là cần thiết tuyệt đối. Nếu sự lãnh đạo của Đảng về tự do dân chủ không sát với yêu cầu thực tế thì công tác sửa sai ít kết quả.
Tiến hành việc sửa sai sẽ có hiệu quả, không gì bằng dựa vào lực lượng quần chúng, không gì bằng để quần chúng tự do bàn bạc tham gia ý kiến, kiểm soát xây dựng chính sách và chủ trương của Chính phủ và Đảng.
Trong thông cáo có viết: “Đảng phải lãnh đạo việc mở rộng tự do dân chủ mộtt cách đúng mức”.
Đó là một việc rất cần. Nhưng vì trong thông cáo chưa giải thích rõ thể nào là đúng mức nên có một số người hiểu lầm, vô tình hay cố ý dựa vào đó để hạn chế việc mở rộng dân chủ của quần chúng.
Họ thổi phồng “mức tự do quá trớn của quần chúng” và bỏ qua không nói tới “mức tệ lậu nặng nề của tư tưởng bảo thủ lạc hậu” đương kìm hãm sự phát triển của chế độ ta.
Nói đến chuyên chính với địch mà quên không bàn kỹ đến vấn đề mở rộng tự do dân chủ, phân tích đánh giá đúng mức những tệ lậu quan liêu, bảo thủ, là chỉ nhìn một chiều và có thể dẫn đến những kết quả nguy hiểm.
Chúng tôi đề nghị với Trung ương Đảng và Chính phủ công bố những tài liệu bổ sung, phân tích kỹ hơn về vấn đề dân chủ và chuyên chính trong hoàn cảnh nước ta, đề ra những quy định cụ thể bảo đảm được việc chuyên chính với địch đồng thời hạn chế được việc chuyên chính bừa bãi tràn lan và đặc biệt là bảo đảm triệt để và thực sự mở rộng tự do dân chủ của nhân dân, chống những tệ quan liêu và bảo thủ. Một số điều khoản pháp trị hợp lý cần được khởi thảo và ban bố.
Chu Ngọc
Nguyễn Sơn, người đi đầu trong đuờng lối văn nghệ rộng rãi
Nói đến anh Nguyễn Sơn tôi sợ ngòi bút của tôi không đủ phong phú để viết về anh – Anh đã tham gia cách mạng từ thuở nhỏ. Anh đã sang Trung Quốc và dự cuộc Vạn lý Trường chinh. Anh là một đảng viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nước nhà giành được độc lập, anh về nước cản đường Pháp tiến từ Nam ra Bắc ở miền Nam Trung Bộ. Đến kháng chiến toàn quốc anh lãnh trách nhiệm Tư lệnh trưởng chiến khu 4.
Tôi đã sống với người cộng sản này một vài năm. Anh có một chút khuyết điểm với tôi. Và tôi cũng có khuyết điểm là lúc đầu chưa hiểu nổi Nguyễn Sơn.
Nhưng sau thêm một lần tôi lại nhập bộ đội, và cũng ở trong một đơn vị của anh. Tôi hiểu anh hơn. Tôi thấy nhiều cái thú vị chung đúc ở anh. Anh có cái gì thực rộng rãi về suy nghĩ, tôi thấy như hơi hướng của Mao Chủ tịch. Có một lúc tôi lại thấy anh hiền hậu và tế nhị như tôi thường nghĩ về Hồ Chủ tịch. Thường thường tôi lại thấy anh là một nhân vật của Thuỷ hử sống lại. Rồi trong lúc hành quân của Liên khu bộ 4 có đoàn văn nghệ, râu ria, gươm giáo gỗ đi len vào giữa những khẩu Ba-dô-ka, tôi thấy anh là hình ảnh Từ Hải của Nguyễn Du…
Tôi đã sống nhiều với tiểu thuyết cổ của nước nhà và Trung Quốc, tôi rất thú vị thấy cuộc cách mạng của nước nhà có một nhà tướng phóng khoáng như Nguyễn Sơn. Cái tác phong quần chúng của anh giúp tôi suy nghĩ nhiều về con người cách mạng. Là một thiếu tướng tư lệnh trưởng của một quân khu rộng lớn, đáng lẽ phải cảnh giác với địch, tôi ngỡ là đi đâu cũng phải tiền hô, hậu ủng, nghĩa là phải bảo vệ như mắc vải ở cánh cửa chiếc ô-tô hòm. Nhưng Nguyễn Sơn thì bất cứ ở đâu cũng thấy: đi chợ Rừng Thông, đi chợ Đô Lương. Chiều vào bãi đá bóng, tối lững thững ở Cầu Bô. Vận quần đùi chạy thi với anh em bộ đội. Vào nhà nông dân lăn ra ngủ. Đánh cờ uống cà phê. Dự những buổi tập kịch. Rồi trịnh trọng lên lớp những lớp huấn luyện chính trị, quân sự và văn nghệ.
Tôi thấy anh xông xáo như thế tôi thường lo: ngộ nhỡ ra thì sao? Nhưng cho đến nay anh không chét vì địch mà lại chết vì bệnh ung thư... mới biết rằng cái đức tin quần chúng, tin nhân dân của Nguyễn Sơn quả là lớn và hiếm có.
Không phải chỉ vì thế mà hình ảnh Nguyễn Sơn đã in sâu vào tình cảm của tôi.
Người cán bộ quân sự ấy bảo vệ đất nước không phải chỉ thuần tuý ở mặt súng đạn. Anh đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao tâm hồn con người Việt Nam để say sưa yêu đất nước, yêu con người, yêu ngôn ngữ, yêu giọng nói điệu múa, yêu thơ, yêu hoạ. Anh đã cùng anh Đặng Thai Mai khơi lên một mùa văn nghệ sáng sủa của buổi đầu kháng chiến ở khu 4.
Những đoàn kịch được thành lập.
Những tờ báo được xuất bản.
Những lớp huấn luyện văn nghệ được liên tục mở và do đó đã đào tạo được một số lớn văn nghệ sĩ trẻ tuổi.
Đề cao và sử dụng vốn dân tộc, đón cụ Nguyễn Đình Nghị lập đoàn tuồng, đoàn chèo ở liên khu bộ. Mạnh dạn cho diễn những tích cũ.
Tạo phương tiện để anh chị em văn nghệ tham gia các chiến dịch và thâm nhập vào quảng đại quần chúng.
Khuyến khích sáng tác. Mạnh dạn xuất bản tác phẩm của văn nghệ sĩ trẻ... "Lúa xanh".
Những kịch bản được sử dụng và lưu hành rộng rãi như Cái đèn, Cái võng, Cái loa, Trên nớ, Người nữ cứu thương Trung Hoa...
Triển lãm hội hoạ được tổ chức thường xuyên và hùng hậu. Sơn mài được khuyến khích sử dụng. Tác phẩm nổi tiếng Cái bát của Sỹ Ngọc đẻ ra ở thời kỳ tốt đẹp này.
Những cuộc tranh luận về văn nghệ được thường xuyên tổ chức.
Đặc biệt những gia đình văn nghệ sĩ được giúp đỡ về vật chất để văn nghệ sĩ được toàn tâm toàn ý vào sáng tác vào công tác.
Bỗng Nguyễn Sơn chuyển công tác, Đặng Thai Mai nằm đau một chỗ. Văn nghệ liên khu 4 nằm vào tay ông Lưu Trọng Lư, chuyển từ Thanh Hoá vào Nghệ An, để bắt cái nguồn văn nghệ xuống từ Việt Bắc do ông Tố Hữu lãnh đạo mà kết quả nó bây giờ đây chúng ta đương tổng kết một cách không lấy gì làm phấn khởi cho lắm.
Cho hay một đường lối văn nghệ chỉ vụ vào cái lợi ích nhất thời, làm cho nhỏ, cho nhanh, cho dễ dãi, cho sơ lược, bảo đó là đại chúng thì phải đưa đến kết quả ngày nay.
Anh Nguyễn Sơn nay hai tay đã buông xuôi. Mộ của anh đã bắt đầu lên cỏ. Những lúc nhắc đến anh một số chúng tôi nghĩ rằng trong cái lúc sửa sai này có những người cần phải sửa lại ngay trong lòng mình những nhận định sai lầm về Nguyễn Sơn. Trong số này có cả trường hợp Trương Tửu vừa đây cũng ngộ nhận về Nguyễn Sơn. Sau khi Nguyễn Sơn đi khỏi Khu IV, có người nói về anh là anh hùng cá nhân, thiếu đạo đức…
Riêng tôi tôi chỉ thấy anh đem đến cho tôi hình ảnh một người cách mạng có tâm có trí. Vì anh là một con ngườI, không phải thần, không phải thánh.
Bây giờ mỗi khi nghe lời một đồng chí chuyên gia Trung Quốc nói về văn nghệ, qua một người phiên dịch, tôi nhớ đến anh nhiều. Trước đây có người không nghe anh có phải vì anh là người nhà, là người Việt Nam không? Hay lúc đó anh nói đã quá sớm?
Nhưng sao anh đã đi?!
Và bây giờ anh đã đi mãi mãi.
H. L.
Không có lý gì mà không tán thành trăm hoa đua nở
Hãy nhìn thẳng vào thực tế, chỉ cần một chút suy nghĩ cũng đủ thấy rằng cuộc sống muôn vạn vẻ, con người ta "sống mỗi người mỗi nết, chết mỗi người mỗi tật", bao nhiêu người là bằng nấy chiêm bao. Bên cạnh người du duơng mềm mại, có người cứng cỏi táo bạo. Có anh như Bụt, có người như Trương Phi. Con đường đi lên xã hội chủ nghĩa, hàng triệu triệu người cùng đi, đem theo nhiều mầu sắc tâm hồn, nhiều hy vọng, mơ mộng và suy nghĩ. Công trình sáng tạo xã hội chủ nghĩa là một công trình tập thể của quần chúng đông đảo, muôn vạn sắc mầu.
Văn nghệ phản ánh thực tế muôn màu, không lẽ gì nó lại chỉ có một màu thôi! Cuộc đời có nắng có mưa, không lẽ gì vào văn nghệ nó lại chỉ còn có độc là nắng hay độc là mưa. Các kiểu khóc, kiểu cười khi vào văn nghệ chẳng lẽ lại chỉ thành một kiểu khóc nhất định, một kiểu cười nhất định thôi hay sao? Hàng triệu triệu hy vọng, ước mơ, suy nghĩ lại chỉ có quyền vào tác phẩm bằng cách cử đại diện duy nhất chính thức là: một kiểu hy vọng, ước mơ, suy nghĩ nào đó thôi sao? Con người ngoài cuộc sống (kể cả công nhân, cả cán bộ) có đủ quyền mơ mộng, vui buồn, giận dữ, làm việc và hy sinh, chẳng lẽ vào văn nghệ nó lại mất đi nhiều quyền của con người, mà chỉ còn mỗi quyền làm việc và hy sinh theo một cách thức nhất định thôi hay sao? Cả bản thân người văn nghệ sĩ, một nhà văn chẳng hạn, chẳng lẽ khi anh cầm bút viết là anh bị hạn chế quyền công dân, tức là anh không còn được tự do bằng khi anh làm một người công dân hay sao? Chẳng lẽ thế giới văn nghệ khác thế giới thực, thế giới thực bên ngoài thì vạn vẻ muôn hình, vào thế giới văn nghệ thì lại chỉ còn độc một mình một vẻ thôi sao?
Rõ ràng là một sự vô lý. Không! Nhất định văn nghệ phải muôn màu sắc như cuộc sống. Sự sáng tạo nghệ thuật không thể chịu được một khuôn thước công thức nào, dù là một cái khuôn vàng, một cái thước ngọc. Sự sáng tạo đòi hỏi tự do phát triển nhiều khuynh hướng, nhiều dòng, nhiều trường phái. Bản chất văn nghệ đòi hỏi trăm hoa đua nở.
Sự lãnh đạo văn nghệ phải tuân theo bản chất nó mà lãnh đạo nó. Lãnh đạo phải công nhận, phải thích hợp với bản chất trăm hoa của văn nghệ. Phải lãnh đạo làm sao thế giới văn nghệ nó phong phú như thế giới thực, nó phải có nhiều khuynh hướng, trường phái khác nhau. Lãnh đạo làm sao cho người nghệ sĩ cảm thấy cái hạnh phúc được lãnh đạo. Người sáng tạo được đảm bảo: không bị đa số chèn ép - được giữ ý kiến mình dù là thiểu số tuyệt đối - được không bị thành kiến khi mắc sai lầm, được phát biểu qua lại khi thấy là mình bị oan ức, được giúp đỡ cho sáng tác mình được phổ cập và chịu phê bình của nhân dân, được yên tâm rằng tác phẩm mình không bị những vùi dập hành chính… Sự lãnh đạo phải là Thiên đường của Trí tuệ, của Văn học Nghệ thuật…
Chỉ có sự lãnh đạo ấy mới phát huy được sức sáng tạo, khai thác được mọi tài năng, làm cho quang cảnh văn nghệ phồn thịnh; chỉ có thế thì nghệ thuật mới trở thành có nghìn cánh tay lực lưỡng đánh địch, đả phá cái cũ, dựng xây cái mới, trở nên một bộ phận tích cực của chế độ.
Bấy lâu nay sự lãnh đạo không được như thế. Nhiều bệnh tật của lãnh đạo – nguy hại là tệ chủ quan độc đoán – đã gây nên tình trạng mâu thuẫn nặng nề giữa lãnh đạo "một hay vài hoa riêng nở", mâu thuẫn với bản chất "trăm hoa đua nở" của văn nghệ. Tất nhiên hậu quả là kìm hãm tài năng, giảm tác dụng của văn nghệ. Đã chết đi hàng loạt đề tài, ví dụ: tĩnh vật, phong cảnh, tình yêu vân vân. Đã chết đi hàng loạt hình thái nghệ thuật, ví dụ: châm biếm, đả kích, kịch thơ, đến nỗi ngày nay người ta đi đến một định kiến nặng nề và vô lý là cho rằng một người chuyên đả kích thì không yêu nước và không có ích bằng một người chuyên ca ngợi! Quang cảnh văn nghệ thật là nghèo nàn. Nhân dân đã chán chường cái lối "một hoa riêng nở". Đó là cái dấu than chấm hết cho đường lối lãnh đạo "một hay vài hoa riêng nở".
Cho nên không lạ gì mà tuyệt đại đa số văn nghệ sĩ, từ già đến trẻ, từ hoạ, nhạc kịch đến văn, thơ, ai ai cũng đều đòi hỏi trăm hoa đua nở. Đòi hỏi lãnh đạo có chính sách thích hợp cho trăm hoa đua nở.
Nhưng còn một vấn đề: nước ta có nên để trăm hoa đua nở hay không?
Có bạn cho rằng tình hình Trung Quốc khác bên ta; bên Trung Quốc chế độ đã mạnh về mọi mặt, riêng trong văn nghệ cũng đã mạnh, đã đấu tranh thắng lợi chống Hồ Thích, Hồ Phong thì trăm hoa đua nở được. Còn bên ta thì chưa đủ điều kiện…
Như vậy là cho rằng lý do đề ra chính sách trăm hoa đua nở là ở chỗ chế độ mạnh. Có mạnh thì mới trăm hoa được.
Tôi e rằng đó không phải là lý do căn bản của chính sách trăm hoa. Khi chế độ mạnh mới trăm hoa, khi yếu thì không thể mà chỉ cho một vài hoa gì đấy thôi, vậy khi còn yếu thì ta sẽ dùng những chính sách, những phương pháp gì mà hạn chế trăm hoa, mà ngăn lại những hoa chủ quan ta cho là khó ngửi? E rằng như vậy là mở đường cho những hạn chế, những ngăn lại... tức là hà hơi hồi sinh cho những tệ lậu chủ quan độc đoán đã bị lên án.
Lại hỏi: mạnh mới trăm hoa, yếu thì không trăm hoa được; vậy tức là bảo trăm hoa là xấu, là có hại? Yếu mà trăm hoa thì trăm hoa nó sẽ làm cho yếu thêm! Vậy mạnh mà trăm hoa thì cũng bớt mạnh đi chứ! Thực là vô lý, đời thuở nào ta lại ra một chính sách để làm bớt mạnh ta đi như vậy? E rằng cái lý luận "mạnh mới trăm hoa" nó đã đi vào chỗ hài hước! Lý luận ấy võ đoán gán cho trăm hoa một cái tác dụng phá hoại. Chắc hẳn là do nó sợ chuyện hoa lành hoa độc lẫn lộn vào nhau. Cũng có lý, nhưng mà hiện nay chẳng có độc có lành sao? Cái lối công thức một chiều rất duy tâm, nhắm mắt khen đời là đẹp, mọi sự là hay, che mắt Đảng, che mắt nhân dân, để lỗ hổng quá rộng cho những tệ lậu hoành hành, cái lối ấy công khai huyễn hoặc người ta, nó bảo rằng: “luật mâu thuẫn từ nay nghỉ ngơi rồi!”, như vậy cái hoa ấy có độc hay không? Nhân dân đã chán ghét nó rồi! Vậy mà không trăm hoa để cho người nói thực được nói tức là cứ duy trì mãi cái hoa khó ngửi độc tôn ấy mãi tới chừng nào? Vậy nên trăm hoa lắm chứ, tất nhiên nó sẽ có lành có độc, có thối có thơm - bao giờ chẳng vậy? - nhưng nó sẽ mâu thuẫn với nhau, bổ sung, uốn nắn hay tiêu huỷ nhau đi nữa. Nhân dân sẽ chọn lọc, và rất đủ sức làm nhiệm vụ giám sát ấy. Chứ lành, độc chẳng phải bạn, chẳng phải tôi định ra, chẳng phải do một cấp nào chủ quan quyết định, cũng chẳng phải “một ngày một giờ” mà định được, cũng chẳng phải định ra một lần thế là thành bản án bất di bất dịch. Mà quyết định là ở thẩm quyền của nhân dân, và lịch sử.
Phải nhìn thấy tác dụng xây dựng của chính sách trăm hoa đối với chế độ thế nào. Phải thấy rằng văn nghệ mà thực sự trăm hoa thì xã hội được phản ảnh đầy đủ hơn, những ao ước, hy vọng và trình độ của quần chúng được trình bày đúng thực hơn, lòng yêu chế độ, tinh thần hy sinh của quần chúng đồng thời những khuyết điểm còn tồn tại được miêu tả rõ ràng hơn, sự thực được phô bày chính xác hơn, cái quyền được biết sự thực của Đảng, Chính phủ và nhân dân được thoả mãn hơn, bọn nịnh hót và mọi thứ kẻ cắp của chế độ sẽ bị trấn áp đích đáng hơn, vì vậy uốn nắn bổ sung kíp thời hơn, củng cố miền Bắc càng nhanh, tranh thủ miền Nam càng tốt.
Rõ ràng chính sách trăm hoa đua nở là một chính sách ích quốc lợi dân. Nó làm cho chế độ đã mạnh càng mạnh thêm, và nếu yếu thì cũng càng chóng mạnh.
Như vậy tức là cái lý luận “có mạnh mới trăm hoa được” với cái lý luận “nước ta chưa đủ điều kiện trăm hoa” đều là những lý luận dè bỉu oan uổng chính sách trăm hoa đua nở. Đó là những lý luận đồng minh quân của cái đường lối “một hay vài hoa riêng nở” đã phá sản hẳn hoi rồi.
Có nên để trăm hoa đua nở hay nên ngăn cấm, vấn đề không phải là do ở chỗ chế độ mạnh hay yếu mà ở chỗ: đó là chế độ nào?
Sử cũ có Tần Thuỷ Hoàng đốt sách. Chế độ phong kiến ai nói Khổng Mạnh bị coi là giặc. Chế độ tư sản mồm thì rêu rao tự do nhưng ai cũng biết chính phủ Mỹ sợ cộng sản, sợ từ con chuột của Oan Đích-Nây đến cái cười của Sác-Lô! Những chế độ ấy sợ tự do, sợ trăm hoa đua nở, vì bản chất phi nghĩa của chúng sợ Sự thật, sợ Trí tuệ sợ Chân lý.
Hiện nay ở ta chính quyền Ngô Đình Diệm có thể nói chuyện trăm hoa không? Chúng bàn gì được chuyện ấy! Chúng bàn cách bán Tổ quốc, bán sự thật cho bọn lái buôn Mỹ thì hơn! Chúng bàn cách kìm hãm cuộc sống, bôi nhọ công lý thì đúng với chúng hơn! Chúng bàn cách vu khống cho ai dám nói sự thực, bàn cách đánh phá những toà báo như Tiến thủ, bàn cách khoá miệng từ tiếng hát, từ lời dân ca thì hợp với chúng hơn! Bản chất ngu si và phi nghĩa của chúng mâu thuẫn với Sự thật, với Trí tuệ, với Nghệ thuật.
Chỉ có chế độ ta mới có thể và dám giải quyết đòi hỏi trăm hoa đua nở của văn nghệ. Rất dễ hiểu: bản chất chế độ ra tự do dân chủ, nó phù hợp với bản chất tự do của Trí tuệ, của Sáng tạo, của Nghệ thuật. Có nên lo địch lợ dụng không? Lo thì cũng nên lo lắm, nhưng lo như thế nào chứ chẳng lẽ lo mà đi đến mức cấm đoán trăm hoa, khác gì lo giặc mà hại mình! 5 kỷ luật tuyên truyền có phải đó là biên giới hợp lý của trăm hoa ở bên ta không? Nếu chưa hợp lý thì rất nên sửa, nếu cần nên thêm, và cốt nhất là cần cụ thể hơn.
Quả thực, không có lý gì mà không tán thành trăm hoa đua nở.
11-11-56
Tranh châm biếm của T. Duy, vẽ ba toà nhà: Trụ sở quốc hội, trại giam và nhà tù, lời ghi trong tranh:
Tin các báo miền Nam: Ngô Đình Diệm huấn thị cho Quốc hội: Chữ “thành” và chữ “tín” cần phải được thực hiện và tôn trọng trong căn nhà này.
Lời bình luận của tác giả: “Đại biểu Quốc hội miền Nam nói với nhau: Còn đấy là những cảnh ở ngoài căn nhà này!”
Việc Sở Báo chí trung ương thi hành kỷ luật báo Nhân văn là bất hợp pháp
Những tài liệu luật pháp về việc lưu chiểu
(Trích sắc lệnh số 18, ký ngày 31-11-1946)
CHƯƠNG THỨ NĂM
Hình phạt
Điều thứ 13 - Nếu nhà in, nhà sản xuất hay nhà xuất bản nào không nộp tác phẩm của mình, hoặc không nộp đủ số bản đã định trong điều thứ 4, 8 và 10, Sở Lưu chiểu Văn hoá phẩm, sau khi đã viết thư bảo đảm đòi mà thấy vô hiệu thì một tháng sau, có quyền mua số văn hoá phẩm không nộp hay là thiếu, phí tổn nhà in, nhà sản xuất hay nhà xuất phải phải chịu.
Sau khi mua và nhận rồi, Sở Lưu chiểu Văn hoá phẩm gửi đơn hàng cho các nhà in, nhà sản xuất hay nhà xuất bản để giả tiền. Nếu họ không chịu giả, giao cho toà án đòi theo pháp luật.
Thể lệ mới về việc lưu chiểu văn hoá phẩm
Hiện nay chưa có một thể lệ nào quy định việc các nhà xuất bản và các báo chí mỗi khi xuất bản phải nộp cho những cơ quan chính quyền có trách nhiệm về việc đó một số sách báo cần thiết (trừ thể lệ Bộ Quốc gia Giáo Dục năm 1956 quy định việc lưu chiểu văn hoá phẩm ở Thư viện T.Ư.). Để bổ khuyết vào tình trạng đó, nay quy định như sau:
1. Mỗi khi các báo chí và các nhà xuất bản (kể cả đoàn thể và tư nhân) xuất bản sách, báo (kể cả hoạ báo, tranh ảnh) phải nộp một số sách báo đó cho các cơ quan chính quyền sau đây cùng với lúc phát hành:
- Sở báo chí (Bộ Tuyên truyền) mỗi số báo ba bản, mỗi cuốn sách 2 bản;
- Cơ quan tuyên truyền văn nghệ nơi mình xuất bản mỗi thứ 1 bản;
- Việc nộp sách báo cho Thư viện T.Ư. để làm lưu chiểu văn hoá phẩm không có gì thay đổi.
Ngoài ra các báo chí, các nhà xuất bản không phải nộp cho một cơ quan nào khác. Cơ quan nào cần thiết thì phải mua.
2. Việc hướng dẫn giúp đỡ áp dụng luật lệ đối vớic ác nhà xuất bản, báo chí trong toàn quốc này do Sở Báo chí (Bộ Tuyên truyền) đảm nhiệm. Những nơi xa Trung ương, Sở Báo chí có thể đề nghị Bộ Tuyên truyền uỷ cho cơ quan tuyên truyền văn nghệ địa phương đó phụ trách.
Ngày 15 tháng 4 năm 1955
Tin sau cùng
Ở chỗ này, chúng tôi đã đặt một bài phân tích rõ giá trị pháp lý của việc Sở Báo chí Trung ương thi hành kỷ luật báo Nhân văn như chúng tôi đã báo trước. Trong bài đó chúng tôi đưa ra đầy đủ lý lẽ và tài liệu để chứng minh rằng:
- Thông báo của Sở Báo chí Trung ương nói rằng chúng tôi đã vi phạm Sắc lệnh số 1 ký ngày 31-1-1946 là sai sự thật. Chúng tôi đã làm đúng Sắc lệnh đó là nộp cho Thư viện Trung ương 8 tờ báo số 4 ngay khi phát hành rồi.
- Thể lệ bổ sung của Bộ Tuyên truyền ký ngày 15-4-1955 mà chúng tôi đã thi hành sai (nộp chậm 3 tờ báo số 4 cho Sở Báo chí Trung ương) tuyệt đối không có khoản nói nếu nhà báo hay nhà xuất bản làm sai thì phải chịu xử phạt thế nào mà cũng hề cho phép Sở Báo chí Trung ương thi hành kỷ luật cảnh cáo rồi đăng lên báo hoặc bằng bất cứ hình thức nào.
- Điểm 2 của thể lệ bổ sung giao cho Sở Báo chí Trung ương trách nhiệm giúp đỡ và hướng dẫn các báo, các nhà xuất bản hay nhà sản xuất, áp dụng thể lệ lưu chiểu nhưng từ ngày báo Nhân văn chuẩn bị ra cho tới nay, Sở Báo chí Trung ương chưa từng làm nhiệm vụ đó một lần nào đối với báo Nhân văn.
- Sở Báo chí Trung ương gửi dồn dập trong một buổi sáng ba công văn hoả tốc triệu tập ông Trần Duy (mà chúng tôi đã báo là mắc bận để rồi trách ông có thái độ không đúng mức với cơ quan chính quyền) là có dụng ý không tốt.
- Sở Báo chí Trung ương ghi vào biên bản một câu không chính xác: "Ông Trần Duy đã tiếp thu lời cảnh cáo trên và đề nghị cho đăng lên báo để đề cao pháp luật của chính phủ" để sau đó có cớ tự ra một thông cáo quan trọng hoá vấn đề và cho đăng lên tất cả các báo hàng ngày. Đó là hành động không đúng nội dung sự thoả thuận. Sự thực ông Trần Duy chỉ đồng ý (chứ không đề nghị) sẽ tự tay viết bài nhận khuyết điểm (chứ không phải Sở Báo chí Trung ương ra thông cáo) và chỉ đăng trên báo Nhân văn (chứ không trên tất cả các báo hàng ngày).
Ngoài ra chúng tôi cũng đề cập đến nhiều vấn đề nguyên tắc và thủ tục pháp lý mà Sở Báo chí Trung ương đã không biết đến hay không tôn trọng.
Nhưng hồi 16 giờ ngày 21-11-56 Thủ tướng Phủ đã triệu tập ông Trần Duy, quyền chủ nhiệm báo Nhân văn đến để thảo luận giải quyết việc Sở Báo chí Trung ương thi hành kỷ luật báo Nhân văn.
Vị đại diện Thủ tướng Phủ, ông Trần Duy và ông Giám đốc Sở Báo chí Trung ương đã cùng nhận định rằng việc đó thi hành vội vàng nên chưa hợp lý. Trên tinh thần nhân nhượng đoàn kết và thân ái ông Trần Duy đã thay mặt toàn thể anh chị em cộng tác với báo Nhân văn coi việc đó là một khuyết điểm của Sở Báo chí Trung ương đã được Thủ tướng phủ sửa chữa kịp thời và không phản kháng nữa.
Hồi 21 giờ (...) được một tài liệu của Thủ tướng Phủ nói về việc này. Mặc dù (...) sắp lên máy chúng tôi cũng tìm mọi cách thương lượng (...) anh em công nhân để rút bỏ bài báo dài (...) được nội dung việc thi hành kỷ luật bất hợp pháp này để tránh những dư luận sai lầm không có lợi cho Sở Báo chí Trung ương. Chúng tôi chỉ lưu lại hai văn bản chính để các bạn đọc tham khảo.
Dưới đây là nguyên văn tài liệu của Thủ tướng Phủ.
Nhận định của Thủ tướng Phủ
Nhân việc Sở Báo chí Trung ương thi hành kỷ luật báo Nhân văn về vấn đề nộp lưu chiểu
Sau khi nhận được thư của ông Trần Duy, quyền Chủ nhiệm báo Nhân văn gửi lên Thủ tướng Phủ về việc Sở Báo chí Trung ương thi hành kỷ luật báo Nhân văn, ông Phan Mỹ, Chánh văn phòng Thủ tướng Phủ, đã thừa lệnh Thủ tướng Chính phủ mời ông Trần Duy lên phủ Thủ tướng nói chuyện.
Cùng dự có ông Trần Minh Tước, Giám đốc Sở Báo chí Trung ương.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu và trao đổi ý kiến với ông Trần Duy và ông Trần Minh Tước, Văn phòng Thủ tướng có nhận định như sau:
- Trong việc chấp hành luật lệ về lưu chiểu, báo Nhân văn có khuyết điểm.
- Đối với các cơ quan ngôn luận, Sở Báo chí, về nội bộ, hướng dẫn phê bình, cảnh cáo để chấp hành đúng luật lệ của Chính phủ là đúng. Nhưng đối với trường hợp này chưa đến mức độ cần thiết, đăng lên báo như vậy không có lợi.
Ông Trần Duy và ông Trần Minh Tước nhận thấy tinh thần của Văn phòng Thủ tưóng Phủ nhận định như vậy là đúng.
Chúng tôi hoan nghênh cố gắng hoà giải của Thủ tướng Phủ và mong nó sẽ được tăng cường để giữ vững mối quan hệ tốt giữa chính quyền và nhân dân.
Tin ngắn
Nhiệt liệt chào mừng thủ tướng Chu Ân Lai sang thăm Việt Nam
Ngày 18-11-1958, ông Chu Ân Lai, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã tới Hà Nội, theo lời mời của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Chúng tôi nhiệt liệt chào mừng Thủ tướng Chu Ân Lai. Tình hữu nghĩ vĩ đại Việt Nam–Trung Hoa muôn năm!
Ý kiến bạn đọc
Lời toà soạn: Ở mục này, chúng tôi sẽ lần lượt đăng ý kiến các bạn đọc xa gần. Có thể có một vài chi tiết chúng tôi không hoàn toàn đồng ý, nhưng chúng tôi đăng nguyên văn, tôn trọng ý kiến các bạn đóng góp cho phong trào mở rộng tự do dân chủ hiện nay.
X. M. và L. N. (cán bộ Liên khu 4)
Lâu nay công tác ở địa phương ít có dịp về thủ đô và cũng thường chỉ đọc báo Nhân dân.
Có dịp về Hà Nội, tôi tìm đọc ba số Nhân văn, tờ Trăm hoa số 2, vài tờ Văn nghệ. Qua việc trao đổi ý kiến với một số đồng chí quen biết, tôi muốn phát biểu một số ý kiến vào vấn đề công tác văn nghệ hiện nay, đó là những vấn đề: việc phê bình báo Nhân văn của báo Nhân dân, một số điểm về quyền tự do dân chủ mà chủ yếu là tự do ngôn luận. Chúng tôi chỉ là những cán bộ làm công tác chính trị nhưng rất yêu và thích văn nghệ, có nhiệt tình với văn nghệ nhưng về trình độ văn học, nghệ thuật còn kém nên không có tham vọng phát biểu về những vấn đề quá lớn mà trình độ chưa đủ nắm chắc.
Trước hết, về nội dung, có một vài điểm trong một số bài chúng tôi chưa đồng ý với báo Nhân văn, nhưng nói chung tôi có cảm tình.
Chúng tôi có cảm tình vì đó là một trong những tiếng nói ở miền Bắc đấu tranh mạnh mẽ với những cái mình cho là sai, biết vận dụng quyền tự do ngôn luận của mình, quyền ăn quyền nói, một trong những quyền thiêng liêng của người dân một nước dân chủ nhân dân.
Thấy cái gì, nói cái đó, biết đến đâu nói đến đó, thắc mắc thế nào cứ nói, nói hết, nói toạc móng heo. Sự thật bao giờ cũng là sự thật. Nhưng nếu không có những ý kiến đối chọi nhau làm sao có chân lý. Chúng ta không sợ địch lợi dụng xuyên tạc gì cả vì bản chất của chế độ ta là tốt đẹp. Nhưng trong quá trinh tiến lên của chế độ đó có những sai lầm. Cứ vạch những sai lầm đó ra hết để mà khắc phục, để ngày càng trưởng thành, để thể hiện được chế độ ta là tốt đẹp, can gì chưa nói đã sợ “địch lợi dụng”.
Chúng tôi không đồng ý với báo Nhân dân điểm này. Báo Nhân dân là cơ quan của Đảng, là tiếng nói của Đảng có nhiệm vụ phổ biến chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ, hướng dẫn dư luận, nhưng không phải là hướng dẫn theo một công thức chính trị gò bó hẹp hòi mà là hướng dẫn theo đường lối chính trị. Đó là đường lối đấu tranh hoà bình, củng cố chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên xã hội chủ nghĩa (còn về nhiệm vụ giáo dục đảng viên tôi không có ý kiến).
Đáng lẽ lúc có một vấn đề thắc mắc tranh luận trên một số tờ báo, những đồng chí phụ trách báo Nhân dân nên đi sâu nghiên cứu khách quan, nhận rõ ai sai ai đúng, sai ở chỗ nào, trên cơ sở đó hướng dẫn các báo phân tích đấu tranh thống nhất. Báo Nhân văn vừa đăng lên một số bài có thể đúng hoặc chưa đúng, báo Nhân dân đã đăng một loạt bài đả kích lại. Theo tôi đó không phải là một phương pháp giáo dục uốn nắn của Đảng mà những ý kiến phát biểu trên báo đó cũng chưa chắc là ý kiến của Trung ương Đảng của toàn Đảng.
Một tác phẩm hay dở đúng sai do dư luận phân tích phê phán đánh giá. Chúng tôi không đồng ý với đồng chí Nguyễn Chương đã viết một số bài có tính chất đả kích chụp mũ như thế trong cương vị là một đồng chí phụ trách tuyên huấn trên tờ báo Đảng. Nói “trăm hoa đua nở trăm nhà đua tiếng” là mỗi người có quyền sáng tác phát minh. Còn đúng sai, giá trị nhiều ít, để dành cho dư luận quần chúng kết luận.
Một vấn đề nữa là quyền tự do báo chí. Đảng và Chính phủ ta đã có những quy định về vấn đề tự do xuất bản, tự do báo chí rất đúng đắn.
Theo chúng tôi tất cả các báo trên quan hệ đối với chính quyền, với Đảng đều bình đẳng. Nhân dân tín nhiệm báo nào, thích đọc báo nào, là quyền của nhân dân, cũng như nhân dân cán bộ và đảng viên (…) vì báo Nhân dân là cơ quan phổ biến chính sách của Đảng của Chính phủ một cách đầy đủ đúng đắn.
Không nên có thái độ phân biệt đối xử như không cung cấp giấy in cho báo này hoặc cung cấp không đầy đủ, vận động nhà in kia không in, đại lý nọ không phát hành. Những điểm đó không có tác dụng gì mà chỉ đưa đến bế tắc thắc mắc, tức bực. Chúng tôi biết rằng đây là chủ trương sai lầm của một vài cơ quan, một số cá nhân mà tuyệt đối không phải chủ trương của Đảng.
Còn về phần các bạn văn nghệ sĩ, kể cả đối với thường vụ Hội Văn nghệ, là những người có nhiệt tình, quan tâm nhiều đến công tác văn nghệ, chúng tôi mong rằng các bạn, các đồng chí cố gắng chân thành hiểu nhau nhiều hơn. Chác là đối với các đồng chí lãnh đạo Hội Văn nghệ, đề nghị các đồng chí nghiêm khắc tiếp thu ý kiến của quần chúng, nhất là quần chúng văn nghệ sĩ, thành khẩn tìm ra sai lầm và nguyên nhân sai lầm, có những biện pháp kịp thời sửa chữa sai lầm, phát huy thành tích Đảng phục vụ nhiều hơn.
Về phần báo Nhân văn, chúng tôi hoan nghênh từ số ba trở đi, bài vở nhiều tinh thần xây dựng hơn và không nên có những cái đả kích quá đáng như tranh vẽ Hoài Thanh số 2.
Hàn Phi Tử
Yêu nên tốt, ghét nên xấu
Trước vua nước Vệ rất yêu Di Tử Hà. Theo phép nước Vệ, ai đi trộm xe của vua thì phải tội chặt chân. Mẹ Di Tử Hà ốm nặng, đêm khuya có người đến gọi, Di Tư Hà vội vàng lấy xe vua ra đi. Vua nghe thấy khen rằng:
“Hiếu thật! Vì hết lòng với mẹ mà quên cả tội chặt chân.”
Lại một hôm Di Tử Hà theo vua đi chơi ở ngoài vườn, đang ăn quả đào thấy ngọt, còn một nửa đưa cho vua ăn. Vua nói:
“Trung thật! Của ăn ngon miệng mà biết để nhường ta.”
Về sau Di Tử Hà can vua nhiều lần trực triệt, không được vua yêu như trước nữa. Một hôm sơ suất, vua giận nói rằng:
“Di Tử Hà trước hắn tự tiện lấy xe của ta đi. Lại một bận dám cho ta ăn quả đào thừa. Thực là mang tội với ta quá nhiều." Nói xong bắt đem ra xử tội.
Ấy Di Tử Hà ăn ở với vua trước sau như một. Thế mà trước vua khen, sau vua bắt bẻ, chẳng qua chỉ vì khi yêu khi ghét mà thôi.
Quảng cáo
Báo Nhân văn cần thêm nhiều đại lý ở các tỉnh. Xin viết thư về 43 Tràng Tiền, Hà Nội.
Châm Văn Biếm
Thi sĩ máy (truyện vui)
(Trích báo Tổ quốc số 41)
I. Thế nào là công bằng mà nói ở cõi đời này?
Đầu năm 2000… Các báo chí xuất bản đều sổi nổi đăng tin tức quan trọng về máy "viết văn" dưới những đầu đề "giật gân" lớn…
Tờ CÔNG THỨC trong bài xã luận "Nhiệt liệt chào mừng các văn nghệ sĩ máy!" đã giới thiệu như sau:
"Nhờ áp dụng những khả năng mới nhất của khoa học điện tử, máy ‘viết văn’ đã hoàn thành thoả mãn được nhu cầu văn nghệ ngày một tăng của loài người. Những sáng tác phẩm của nó, vừa kịp thời vừa minh hoạ đúng chính sách, sẽ giải quyết được mọi khẩu hiệu phức tạp của cuộc sống.
Mỗi giây đồng hồ máy đó có thể sản xuất được từ 7 đến 8.000 dòng văn thơ. Nếu dùng sức óc và tâm hồn người thì phải hàng ngàn văn nghệ sĩ với một trình độ sách vở rất cao, cặm cụi hàng trăm năm mới làm nổi…
Do tính chất ‘Nhân văn’ của máy nên ta tạo cho nói cái vỏ bọc ngoài, hình dáng một anh chàng: trẻ, khoẻ, đẹp, chỉ khác người ‘thật’ là đứng nguyên một chỗ, không nói, cười, chạy nhẩy, nhất là không yêu đương lãng mạn lôi thôi…"
Báo CÔNG THỨC kết luận:
"Chúng ta, những con người ‘thật’, cần hợp tác nhất trí với các người ‘máy’, cần triệt để dùng họ và đội quân văn nghệ sĩ có thể chuyển sang các ngành công tác khác, tăng cường thêm lực lượng kiến thiết thời đại điện tử của chúng ta."
Hơn một năm sau cái ngày tin vui đó truyền đi, thì hàng loạt văn sĩ máy, thi sĩ máy, kịch sĩ máy được tung ra thị trường. Một số cán bộ phụ trách về văn chương sính máy móc ở một số ngành, một số cơ quan xí nghiệp nông trường v.v… thi nhau mua về sử dụng. Ở những nơi đó, nền văn nghệ máy được độc quyền tô lục chuốt hồng cuộc sống bình ổn, còn lũ văn nghệ sĩ bằng xương, bằng thịt thì bị gạt ra ngoài.
Nhạc sĩ Ảo Huyền được cử đi học lớp "nghiên cứu nghề làm nước mắm"; hoạ sĩ Lập Thể được điều sang Mậu dịch; nữ sĩ Trong Trắng ném bút làm nghề đỡ đẻ. Thi sĩ Mây Nước ra Bờ Hồ làm nghề bói Kiều tán róc về thành phần giai cấp cho những người còn đầu óc mê tín dị đoan.
Văn sĩ Đắng Văn Cay phải ra chợ giời làm nghề bán văn kiêm bán săm. Săm lốp vì cần khuyến khích nên được miễn thuế, còn văn của Đắng Văn Cay thì bị liệt vào hàng "vô dụng" và phải chịu thế 4 phần trăm. Rất ít người chịu quẳng tiền ra mua. Đôi ba vị khó tính lại còn rỉa rói: "Văn chương anh thì ra cái đếch gì! Không ích lợi bằng chiếc đế dép cao su của tôi nữa kia!". Nhà đạo diễn Kinh Kha được chuyển sang ngành nuôi cá vàng, mỗi khi luyến tiếc sân khấu thường ngắm cá bơi lội rồi tưởng tượng con cá vẩy bạc óng ả này là Điều Thuyền, con cá đen mặt sắt nọ là Bao Công, cặp cá đuôi cờ lồi mắt kia là đôi nhân vật tiểu tư sản...
Tóm lại có một bộ phận văn nghệ sĩ bị tơi bời rối loạn. Ai cũng thù ghét lũ người máy mới ra đời kia, nhưng ai cũng chịu thua. Vì cứ công bằng mà nói thì "máy móc" quả là kịp thời sự, thông kinh sử, lại đúng khuôn phép, "tốt ăn tốt ở" hơn người thực ở cõi đời này.
II. Vì sao mà "Lăng Quăng" nổi ghen?
Ở nông trường tập thể CON ÉN có nhà thơ trẻ tuổi Linh Quang. Suốt mấy năm liền kể từ ngày nông trường bắt đầu xây dựng, Quang đã làm thơ ca hò vè đủ kiểu, khi duyên dáng, khi nghịch ngợm, khi thiết tha yêu đời để phục vụ nông trường. Một vài bài thơ của anh đã được bà con học thuộc lòng. Nói chung anh làm việc tốt và được cảm tình của nhiều người.
Nhưng có ưu thì cũng phải có khuyết. Cái khuyết của anh ta là hay vi phạm luật lệ. Giữa giờ chính quyền nhiều lần anh bỏ đi chơi. Khi thì đi câu với cụ HAY RƯỢU để tán ma tán mãnh về nhiều cái sự đời. Khi thì lê la tâm sự với vài gã thanh niên, bàn về những chuyện tương lai trên giời dưới đất. Khi thì trò chuyện với một số phụ nữ ở nhóm giữ trẻ, điều tra cái việc sao đàn bà và con nít lại hay khóc như nhau. Đôi khi còn làm thư ký riêng cho vài lão bà muốn viết thư gửi con cháu công tác ở tỉnh xa. Ngoài ra anh còn bừa bãi như giấy tờ sách vở không sắp xếp ngăn nắp, tóc không có đường ngôi, áo mặc chuyên môn không cài khuy cổ, sáng tác thì không có chương trình kế hoạch. Nghiêm trọng nhất là khi yêu cô DUYÊN, cán bộ cơ xưởng của nông trường, anh không hề có báo cáo trước. Tất cả những điều trên đây là làm cho trưởng ban nội quy NGHIÊM VĂN TÚC, con người rất mực khuôn vàng thước ngọc, phải lấy làm bực mình và chướng tai gai mắt. Túc thường bắt bẻ anh và gọi riễu anh là LĂNG QUĂNG. Cả nông trường về sau cũng quen gọi anh bằng cái tên bị Túc xuyên tạc ấy.
Ông chủ tịch nông trường vốn người từng trải, hiểu rõ câu "nhân vô thập toàn", lại biết mến tài nên đối xử với Lăng Quăng rộng lượng. Cũng vì vậy mà trong khi có một số nơi đã mua sắm văn nghệ sĩ "máy", ông vẫn viện hết lý do này lý do khác để không chịu dùng cái thứ "máy móc" đó. Ông nói: "Còn khối nơi người ta không có người máy mà phong trào văn nghệ của người ta vẫn lên rầm rầm". Có lúc ông lại phát biểu: "Đồng chí Lăng Quăng vẫn đủ khả năng phục vụ nông trường" hoặc "Văn thơ máy thì hay làm sao bằng văn thơ người được". Nghiêm văn Túc luôn luôn đối lập với những ý kiến đó, luôn luôn đòi nông trường CON ÉN phải có một thi sĩ máy. Túc thì chẳng hiểu văn nghệ, văn nghiếc là cái quái gì, nhưng chỉ nghĩ một cách sơ lược là: được cái gã "tốt ăn tốt ở" ấy về thì đỡ phải lao tâm tổn trí đối phó như đối với Lăng Quăng. Phần nội quy ở nông trường tất nhiên sẽ được bảo đảm.
Túc đòi hỏi nhiều lần mà cứ bị gạt đi, bèn mưu mô vận động một số anh em cùng cánh làm kiến nghị phê bình ông chủ tịch là cảm tình cá nhân, có tư tưởng bao che hữu khuynh với Lăng Quăng, không có tinh thần cải tiến nông trường, thiếu tin tưởng ở kỹ thuật hiện đại. Bản kiến nghị yêu cầu ông chủ tịch phải cho nông trường sắm ngay một người máy về thay thế Lăng Quăng, nếu không sẽ kiện lên trên. Ông chủ tịch bị dồn vào cái nước không đồng ý không được nên đã quyết định tán thành, nhưng đồng thời ra chỉ thị vẫn để Lăng Quăng làm thơ như trước, chiếu cố đến thành tích của anh ta.
Thế là chỉ mươi ngày sau, Nghiêm Văn Túc lên bách hoá tỉnh chọn lọc, đã mua về đuợc một thi sĩ máy, cổ đeo biển đăng ký số 111.
Đêm ra mắt của thi sĩ 111 được tổ chức trọng thể. Câu lạc bộ treo đèn kết hoa rực rỡ như những ngày hội mùa. Nam nữ đều ăn mặc đẹp. Trước khi vào bàn tiệc, người ta thì thào bàn tán rất nhiều về "anh ta", nhất là trong đám đàn bà con gái. Một nữ công nhân lái máy cày khoe khoang: "Các bà chị ạ! Em được xem mặt anh ta hôm mới khiêng về rồi. Sao người giả mà đẹp thế, đẹp hơn người thật chúng mình nhiều. Đôi mắt anh ta lại cứ nhìn em chằm chằm làm em ngượng đỏ cả mặt". Cô Duyên (người yêu của Lăng Quăng) cũng ở trong đám ấy. Muốn tỏ cho mọi người biết trình độ học rộng của mình, cô bèn vanh vách thuật lại những điều đọc được về người máy đăng trong tờ CÔNG THỨC.
Không mộ ai thèm đẻ ý đến Lăng Quăng nữa, Anh thất thểu đi giữa đám đông, chẳng bắt chuyện với ai mà cũng chẳng ai buồn bắt chuyện với. Càng nghe những lời tán tụng thi sĩ máy, lòng anh càng nặng trĩu buồn phiền.
Bước vào tiệc rượu. Nghiêm Văn Túc đạo mạo đọc diễn văn khai mạc với những câu văn vẻ hùng hồn như sau: "Chúng ta hoan nghênh người bạn mới của nông trường và tin tưởng tâm hồn điện tử của anh sẽ truyền hơi sống vào thi ca, ngõ hầu thúc đẩy chúng ta tiến mau trên đường sự nghiệp..." Tán đến con số đăng ký 111, Túc nói: "Nếu đem chiết tự con số đó, chúng ta sẽ được ba con mắt ‘nhất’, nó biểu hiện anh bạn chúng ta có ba điệu trội nhất, ấy là: nhanh nhất, đúng nhất và kỷ luật nhất. Tôi trân trọng đề nghị từ này sẽ gọi tên anh là BA CON NHẤT cho nó… mỹ thuật". Quay sang phía Lăng Quăng, Túc cười đắc chí, kêu gọi Lăng Quăng nên cố gắng noi gương thi sĩ Ba Con Nhất về mọi mặt, nhất là về mặt tôn trọng nội quy. Đọc xong diễn văn, Túc chắp hai tay lên ngực, nghiêm chỉnh ngồi xuống, đảo mắt liếc trộm đám phụ nữ, y thầm nghĩ: mấy cũng có vài cô ả cảm phục cái oai phong lẫm liệt của mình.
Tiếp đó, theo đúng nghi lễ, người ta mở tấm vải choàng phủ mặt để Ba Con Nhất xuất đầu lộ diện. Toàn phòng đứng dậy vỗ tay, nâng cốc, chạm cốc, hoan hô ầm ầm và xuýt xoa khen bộ mặt phỗng của Ba Con Nhất quá là trẻ đẹp. Người ta vặn những nút chữ sau lưng hắn, máy chạy sè sè trong bụng hắn. Đôi mắt hắn lúc sáng lúc tắt, trông tưởng như nhấp nháy, chỉ độ phần mười một giây hắn đã nhả ra ở khe hở con sau gáy một tờ giấy in bài thơ dài đáp từ. Lăng Quăng được chỉ định lên ngâm bài thơ đó. Tiếng ngâm vừa dứt thì tiếng hoan hô lại ran như sấm, nhiều cô gái nhảy cẫng lên. Một bà mẹ quá xúc động chạy đến chỗ Ba Con Nhất đứng dịu dàng hôn trán hắn. Một thanh niên gỉ tai Lăng Quăng van vỉ mượn bài thơ đáp từ đó để về chép và học.
Trong một tiệc rượu, người ta vừa ăn vừa nắc nỏm khen từng chữ từng câu của bài thơ. Mấy cụ ông râu dài trầm giọng láy đi láy lại những câu mà các cụ cho là lý thú nhất như:
… Thời đại tươi vui đẹp nắng vàng
Rập rờn cờ đỏ trống khua vang
Bao tay lao động xây tươi đẹp
Phấn khởi nông trường, tiến tiến hăng..
Rồi các cụ ho sù sụ làm cho các cụ bà mủm mỉm cười nửa tình tứ nửa thương hại. Trong khi ấy Nghiêm Văn Túc thỉnh thoảng lại trang trọng gật gật cái đầu, tỏ vẻ hài lòng và hả hê đảo mắt liếc phụ nữ…
Lăng Quăng thì im như cá chép, đau khổ ngồi thu nhỏ mình lại trong bàn tiệc, cảm thấy mình bé bỏng quá, tồi tàn quá. Mọi khi trong các buổi hiếu hỉ, anh là cái "đinh". Mọi người tha thiết nài ép anh ngâm thơ. Mọi vỗ tay đều dành tặng cho những vần điệu du dương hay bốc lửa của anh. Mọi con mắt đều đăm đắm rót nhìn vào anh. Mọi đôi môi đều kín đáo trao cười. Than ôi! Thời oanh liệt đó từ nay còn đâu nữa!!! Nhưng ai oán nhất cho Lăng Quăng là cô Duyên xem chừng khác ý, suốt tiệc rượu cứ nhìn dán vào mặt Ba Con Nhất, dáng điệu mê mệt, nhiều lần đánh rơi đũa, thìa, cốc hoặc gắp nhầm thức ăn ở đĩa người ngồi cạnh. Lăng Quăng nổi ghen một cách thực thà và choáng váng.
III. Tâm hồn điện tử của Ba Con Nhất
Hàng ngày… hàng ngày vào hai buổi sáng chiều, những bài thơ rút từ sau gáy Ba Con Nhất đều được Nghiêm Văn Túc cho ngâm trước máy phóng thanh. Hết ca tụng "Máy gặt về", "Điện về", "Nước về" lại tả cảnh "Chuồng thỏ mùa xuân", "Cánh đồng mùa hạ", "Hợp tác xã mùa thu". Bài nào cũng mở đầu bằng "Thời đại tươi vui…" Đoạn giữa thế nào cũng có "Cờ đỏ trống khua tay lao động..." Đoạn kết bao giờ cũng có mấy lời kêu gọi "Phấn khởi... tiến hăng..."
Nói đến nhiệm vụ thì sao cũng nhắc nhở "Bỏ ăn bỏ uống một ngày, nhưng không bỏ được máy càng vinh quang". Yêu nhau thì phát triển mãi cái tứ duy nhất là "Yêu nhau dù trọn một đời… Xin đừng đắm đuối mà rơi lập trường".
Tâm hồn điện tử của Ba Con Nhất cứ một điệu như vậy, nhạt nhẽo truyền hơi sống vào thi ca, bao trùm mọi câu chuyện, mọi tâm tình, mọi cảm nghĩ của cả nông trường… Mọi em bé chăn bò học đòi Ba Con Nhất cũng ông ổng ngâm nga: "Bỏ ăn bỏ uống một ngày..." Một chiều chủ nhật, Lăng Quăng đi chơi rừng với Duyên.
Có bàn chuyện cưới xin thì bị Duyên chỉnh luôn: "Xem ra đắm đuối lả lơi... Coi chừng kẻo lại đánh rơi lập trường!..." làm cho Lăng Quăng thở dài sườn sượt.
Thấm thoát tới hội mùa. Nông trường CON ÉN thu hoạch tốt có tổ chức mít tinh ăn mừng thắng lợi. Chỉ trong nháy mắt Ba Con Nhất đã sản xuất được "Bài ca vụ mùa thắng lợi" ngàn rưởi câu. Nội dung vẫn giống các bài cùng loại này do Ba Con Nhất sản xuất như "Ca làm cỏ thắng lợi", "Ca đi săn thắng lợi", "Ca phát huy sáng kiến thắng lợi", nghĩa là lại vẫn: "Tươi vui… lúa vàng... cờ đỏ hát ca vang... tay lao động... bỏ ăn bỏ ngủ quên sao vụ mùa... phấn khởi tiến hăng… công nông trí kết đoàn v.v…"
Nghe xong mọi người lại vô tay một cách hợp thời trang. Mấy cụ râu dài quen lệ lại láy vài câu để các cụ bà mỉm cười.
Lăng Quăng lại thấy bực bội trong người, bật dậy như chiếc lò xo, đầu ngẩng rất cao, phát biểu: "Sáo đến thế! Nhạt như nước ốc đến thế mà bà con cũng thích được à!…"
Nghiêm Văn Túc bèn nổi giận như Chúa thấy quỷ Sa Tăng đả kích vào con chiên của mình, hội ý cấp tốc với một số cán bộ trung kiên để phê phán Lăng Quăng. Một người nói: "Đồng chí Lăng Quăng nặng đầu óc địa vị… thấy thơ của thi sĩ Ba Con Nhất được mọi người yêu thích thì sinh ra ghen tuông bất mãn…" Một người phân tích: "Đồng chí Lăng Quăng nói xấu bạn… phê bình thiếu xây dựng, kiêu căng không chịu học hỏi… như thế là tư tưởng phá hoại". Nghiêm Văn Túc quên cả chắp tay lên ngực trân trọng như mọi lần, vội vã lên diễn đàn vận động lý luận kết tội Lăng Quăng coi thường sự thưởng thức văn nghệ của quần chúng và phạm vào chính sách đoàn kết giữa người "máy" và người "thật". Túc đề ra ý kiến tổ chức một cuộc đọ tài văn thơ giữa Lăng Quăng và Ba Con Nhất. Nhiều người giơ tay ủng hộ Túc. Túc nắm chắc phần thất bại nhục nhã của Lăng Quăng và như thế là có cớ để dập vùi anh. Cô Duyên lên diễn đàn xin có ý kiến. Lăng Quăng hồi hộp đợi, tin tưởng ít nhất người yêu của mình cũng sẽ bênh mình. Nhưng không! Bằng giọng cả quyết, cô nói: "Nếu đồng chí Lăng Quăng thua, tôi kiên quyết sẽ cắt đường luyến ái… vì tôi không muốn lấy chồng tồi, không tiến bộ…"
Lăng Quăng mỉm cười chua chát Anh ngẩng cao đầu nhận đọ tài với tên người "giả" đang được mù quáng tôn sùng kia.
Ngay sáng hôm sau, toàn thể nông trường nghỉ buổi làm, tới câu lạc bộ chứng kiến một cuộc thi tài văn nghệ "không tiền khoáng hậu".
Nghiêm Văn Túc được chỉ định làm trưởng ban giám khảo, ngồi giữa phòng, hai bàn tay chắp lại đặt giữa ngực, rõ ra dáng nhân vật quan trọng. Bên tả là Ba Con Nhất đứng, ngó bộ kênh kiệu. Bên hữu là Lăng Quăng ngồi thiểu não. Đầu bài thi như sau: "Tả cảnh trời xuân…" Túc đánh kẻnh báo hiệu bắt đầu. Phòng họp trở nên im lặng. Chỉ còn nghe thấy tiếng ruồi bay vo vo, tiếng máy chạy sè sè và tiếng ngòi bút kêu soàn soạt.
Khốn nạn Lăng Quăng cắn bút mãi mới được chưa đầy dăm câu thơ mà Ba Con Nhất đã tuôn ngay một bài thơ 3000 câu. Thế là cuộc thi chấm dứt. Lăng Quăng thua hẳn hoi. Mồ hôi anh vã ra, nét mặt răn rúm lại. Anh được chỉ định ngâm hộ Ba Con Nhất. Giọng anh đau đớn xót xa (giọng của người thất bại chua cay) khiến bà con lầm tưởng anh muốn làm nổi bật lên tâm hồn điện tử thiết tha của Ba Con Nhất và người ta càng vỗ tay ầm ĩ.
Bài thơ cũng vẫn quanh đi quẩn lại những câu như:
… Rực rỡ vườn xuân, cúc nở vàng
Hoa đào tươi nở báo Xuân sang
Dựng xây nhân loại, tay lao động
No ấm từ đây mãi vẻ vang
Nhà máy khói vờn, đà thắng lợi
Công nông trí thức thấy vinh quang
Xuân sang phấn khởi ta đều hứa
Kiến thiết nông trường, tiến tiến hăng!…
hay
Quên ăn, quên ngủ, chớ quên đời
Chớ quên đất nước, mây trời mùa xuân…
Vài cụ râu dài lại làm cái việc thường lệ là nhại lại vài câu lý thú, không quên ho sù sụ để các cụ bà thương hại. Nghiêm Văn Túc đủng đỉnh đứng dậy, ra lệnh bế mạc, rồi rời phòng thi, mắt không quên liếc ngược đảo xuôi, chắc mẩm thế nào cái dáng điệu quan trọng của mình cũng lọt vào đôi mắt xanh nào đấy…
IIII. Ba điều đáng chết và ba điều hèn
Từ sau cái bữa hỏng thi, Lăng Quăng đã không được Duyên đoái hoài đến nữa.
Càng ngày cái vị trí của anh càng bị xuống. Nghiêm Văn Túc lại quất những làn roi phê bình tàn bạo vào những sáng tác phẩm của anh, gây thành dư luận rộng rãi khiến cho cả nông trường thành kiến với thơ anh đến độ thơ anh làm ra ngâm lên chỉ độ vài khúc là người ta đã nhao nhao kêu tồi, kêu đồi bại, kêu lãng mạn. Có người lại chụp lên dăm cái mũ phong kiến tư sản, tiểu tư sản v.v…
Một bữa, muốn đo lòng người, anh đã là một việc gian dối là ký láo tên Ba Con Nhất xuống một bài thơ mới của anh rồi đem ngâm. Nghe xong, lập tức Túc đứng ra lảm nhảm phân tích làm cho cả nông trường nắc nỏm khen hay. Anh liền nói rõ sự thật là bài ấy chính anh làm thì một số không tin, cho là anh khuếch khoác, một số khác (trong đó có cả Duyên) thì lại nói: "Thảo nào, bọn mình nghe xong cũng ngờ ngợ, cảm thấy bài thơ tồi quá…" Riêng Nghiêm Văn Túc thì đao to búa lớn phê phán anh về cái tội lợi dụng tên tuổi của Ba Con Nhất để được tiếng khen, xúc phạm đến uy tín của lớp người "máy".
Lăng Quăng bị chăng chói giữa cuộc sống đầy rẫy thành kiến, bị chung quanh không hiểu mình, bỏ rơi và lạnh nhạt Mà tất cả chỉ tại cái "máy người". Nghiêm Văn Túc và cái người "máy" Ba Con Nhất vô tư vô giác kia, sừng sững yêu quái ở giữa cái nông trường tươi đẹp này. Anh căm phẫn cao độ.
Một buổi chiều thoáng thấy bóng Duyên tiến về phía Câu lạc bộ, anh liền theo sau. Duyên vào buồng đặt Ba Con Nhất, bàn tay còn đầy dầu máy chứng tỏ cô ả vừa ở cơ xưởng về là vào thẳng đây. Anh đứng nấp sau rem cửa nhìn vào, bỗng thấy Duyên ngoan ngoãn quỳ xuống trước Ba Con Nhất thầm thì xin một bản tình ca. Duyên vặn nút chữ. Tiếng máy sè sè chừng một tích tắc. Ba Con Nhất nhả ra sau gáy một cuộn giấy. Duyên giở ra ngâm nga khe khẽ:
… Nghe em! Đừng quên nhiệm vụ
Chớ mất lập trường
Trọn đời anh sẽ yêu em v.v…
Ngâm xong, Duyên áp bài thơ tình đó vào ngực và ngước mắt đắm đuối nhìn vào đôi mắt nẩy lửa của Ba Con Nhất.
Lăng Quăng thấy sôi sục trong tim. Ý nghĩ rùng rợn nẩy ra. Nhất định phải cho vài nhát dao. Anh thò tay vào túi lấy ra con dao nhíp, mở cả hai lưỡi loang loáng sáng… và anh tiến vào. Duyên giật mình quay lại, hơi mỉm cười làm anh bối rối. Để lấy can đảm, anh bèn dõng dạc tuyên án: “Cô có 3 điều đáng tội chết. Điều thứ nhất là cô cám dỗ máy làm tổn thương đến đạo đức của máy. Điều thứ hai là cô ăn ở bạc tình vô chung vô thuỷ, ấy là tội phản bội. Điều thứ ba là cô giết chết một thiên tài là tôi, phương hại đến cái vốn quý nhất của xã hội là con người.”
Duyên bình tĩnh đáp lại: “Tôi chết không đáng tiếc, chỉ tiếc là chết bởi tay người hèn. Anh có 3 điều hèn không đáng sống. Điều hèn thứ nhất là anh mang tiếng làm người mà thi văn thơ phải chịu thua máy, điều hèn thứ hai là anh đã ăn cắp cái tên của máy để được tiếng khen, còn điều hèn thứ ba là anh định dùng dao hại người tay không, mà người đó lại là người đàn bà con gái…”
Lăng Quăng ôm mặt khóc rưng rức và bỏ ra về. Án mạng không xảy ra, chỉ có lòng anh rớm máu đau thương. (Thực sự Duyên vẫn yêu anh nhưng vẫn phải làm thế nào để giáo dục người yêu.)
Mấy hôm sau Lăng Quăng gặp ông chủ tịch, xin rút lui nghề làm thơ, xin được chuyển công tác khác. Nông trường đang thiếu chân quét chuồng ngựa. Ông chủ tịch đã sắp xếp anh vào chân đó, đồng thời cố an ủi khuyến khích anh. Anh làm việc cần cù nhưng đêm đêm vẫn thức khuya tiếp tục làm thơ, những vần thơ ngậm ngùi nói lên:
… Những xót xa, những nước mắt khôn nguôi
Những tiếng hát muôn chim,
Những phút trái tim cười
Tôi chắp nỗi buồn vui mãi mãi
(Dù em chẳng nghe tôi)
Tôi vẫn ca
Lanh lảnh chuyện đời
Lòng hằng tin: Người sẽ hiểu lòng tôi.
V. Đoạn kết rất công thức nhưng cần thiết
Số là… dù sao đi nữa thì máy vẫn chỉ là máy. Khả năng của máy chỉ có hạn. Tâm hồn điện tử của Ba Con Nhất dù được Nghiêm Văn Túc nâng niu đến mấy đi nữa cũng trở nên tầm thường khô cạn và nhạt nhẽo. Nông trường CON ÉN đã bắt đầu ngấy những vần điệu nhai đi nhai lại mãi.
Những bài về thời sự chính sách của thi sĩ máy từ bài thứ vài nghìn trở đi được phóng thanh sáng sáng chiều chiều đã làm các bà già buồn ngủ, các ông già bực dọc bứt tóc vặt râu, các con trai bịt lỗ tai, các cô gái thanh xuân thì nguyền rủa: “Khổ lắm biết rồi, cũ lắm rồi”. Còn cụ Hay Rượu thì chếch choáng vài ba tợp rượu xông lại trước mặt Ba Con Nhất mà cà khịa. Nghiêm Văn Túc thì giở một quyển luật về “chống đánh nhau” ra can.
Cuối cùng cả nông trường kiến nghị lên ông chủ tịch đòi quẳng Ba Con Nhất vào kho chứa đồ đồng nát. Túc cố kể thành tích của Ba Con Nhất hòng cứu vãn quyền uy của máy. Cả nông trường phản đối Túc quyết liệt, lại còn đòi quẳng cả cái tủ sách vở chứa trong bụng Túc đi nhân thể. Túc lấy làm sợ hãi, vội vàng chắp hai tay lên ngực, rồi khóc, trang trọng y hệt bậc chân tu thấy mọi gười không hiểu nổi chánh đạo của mình.
Sau đó Nguyễn Linh Quang được trả về chức vụ thi sĩ của của mình. Nông trường giao cho cô Duyên xuống chuồng ngựa đón. Cuộc tái hợp diễn ra bao nhiêu mừng mừng tủi tủi.
Nông trường trở lại đời sống thực của con người. Bà con lại học thuộc thơ Lăng Quăng, những bài thơ hiện thực xã hội chủ nghĩa, rất “người”, ca tụng tình yêu lao động, sáng tạo yêu đất nước và yêu cuộc sống vĩ đại muôn màu muôn vẻ
Tin sau cùng: Những sự việc xảy ra ở nông trường CON ÉN đã tương tự xảy ra ở một số nơi khác (từng sử dụng sai lầm người “máy”) và cùng đi đến một kết luận công thức nhưng rất cần thiết như đã kể lại ở trên đây.
1956
Trần Dần
Tôi đứng mênh mông chỉ mặt "ngài" Ngô
(Đoạn thơ này trích trong bài thơ dài "Cách mạng tháng Tám" của Trần Dần, in trong tập thơ Cửa biển của 4 người Hoàng Cầm, Văn Cao, Trần Dần, Lê Đạt, nhà xuất bản Văn nghệ mới phát hành.)
Tôi công dân nước cộng hoà mười một tuổi.
Tôi đứng mênh mông
chỉ mặt
Ngài Ngô,
Ngài nói: được lòng dân, thắng lợi.
Tự do, tự diếc, gì gì…
Nhưng thưa Ngài -
Sai Ngài phải rúc vào bóng tối suối A-chê,
Ngài moi ruột từng người phụ nữ
từng em bé dại, tay không –
mà tội ác Ngài vẫn phơi ra ánh sáng?
Sao ảnh Ngài in giấy Mỹ trắng thơm,
người dân lại phơi ngài
ra cửa liếp
cho một phên gậm nát, nắng mưa thui?
Tại sao những em bé chăn trâu
lại đánh rớt ngài
trên đống cứt?
Ngài hãy hỏi mỗi con đường, góc phố
đã xấu hổ ra sao
vì sống dưới quyền Ngài?
Những tờ báo
ngợi ca Ngài sao nhỉ
Ngài phải giở trò du côn đánh đập người ta?
Những gánh hát
chắc hát Ngài hay lắm
Ngài phát run lên
khoá miệng cả lời ca!
Ngài thắng lợi: bao nhiêu đồng cỏ dại!
cánh tay nông dân
ôm ghì đất mẹ ra sao?
Tố cộng -
Ngài bắt được những hai người
ở Gia Định cơ à?
Nhưng -
sao Tổng thống mặt xanh như chàm đổ
khi chân chị Diệu
bước về thành?
Sao ở vùng Cái Nước, Bạc Liêu
Ngài uất ức, thổ ra từng chậu máu
lùng vây: -
không bắt được người nào?
Ngài hãy hỏi
những thùng phiếu giả
chúng chửi Ngài mấy cót mấy nia?
Ngài đã thắng bốn vị Thần Khoái Lạc.
Nhưng -
gia quyền Ngài
mở mấy tiệm, mấy sòngthêm?
Sao những R.O.
Phun loạn khói Sài Gòn?
Sao những tấn mủ
hàng tấn lim la
vẫn khệnh khạng
ra vào dinhTổng Thống?
Và các vị Mỹ làm sao
say bí tỉ
ôm đàn bà cởi truồng
nhẩy trước mặt Ngài xem?
Cả tư sản cũng đòi ngao du miền Bắc.
Sao Ngài run lên
khi nghe: quan hệ bìnhthường?
Ngài lo sợ điều bình thường ấy
sẽ đưa Ngài xuống vực bất thường ư?
Ngài lắm súng - lại sẵn lòng tàn bạo.
Không bao giờ
Ngài từ chối
máu dân ta.
Nhưng -
Chợ Lớn
sao Ngài không dám bắn
300 công nhân khai hội chửi Ngài
Và khắp miền Nam
dưới mũi lê Ngài
sao nẩy nở lắm ca dao hay thế?
Khen ngài là –
bán nước
Tặng Ngài tên -
con chó gặm xương?
Thôi, khoan nói: nhân tâm, thắng lợi
Hãy đếm những cục-xương-đô-la
chủ Mỹ quăng cho
Và tốt nhất -
hãy bàn cách chết!
Số phận Ngài là:
sẽ chết treo.
Dây thòng-lọng-thời-gian
xám xịt
đã bắt đầu thấy nhục
phải xiết trên cái cổ thối tha Ngài!
Hoàng Tố Nguyên
Tiếng hát quê hương
Lời toà soạn: Hoàng Tố Nguyên là một trong những nhà thơ xuất sắc miền Nam. Thơ của anh trong kháng chiến đã có tác dụng khá sâu trong nhân dân Nam bộ. Từ ngày tập kết, Hoàng Tố Nguyên sáng tác nhiều, có một số bài trội như “Gò me”, “Gửi Hương và con”, “Bài thơ bên gối cưới”. Lần này chúng tôi giới thiệu bài “Tiếng hát quê hương” của anh vừa sáng tác, trong đó bao hàm tình yêu Nam bộ thắm thiết của anh.
Mẹ sinh con
vò rơm bện ổ
Mẹ ru con
tiếng võng chiều quê:
“Ầu ơ… Vàng cầm kể cũng bỏ đi
Chồng xung lính tập mấy khi trở về!...”
Con lớn lên giữa bốn bờ tre
Lần vách nát tập bước đầu chập chững
Hàng so đũa mây mùa lá rụng
Ao bèo khô, bùn vẩn chân cầu
Võng sờn bẹ chuối (…) tao
Máu tươm vú mẹ hôm nào thiếu cơm
Cầm canh tiếng cú vọng buồn
Nựng con, rứt vú, bồn chồn mẹ đi
Tù và gọi thợ cấy thuê
Tưởng chừng cắt ruột những khuya mưa dầm
Bà con nhắm mắt trời rằng
Xót nàng dâu trẻ, thương thằng cháu thơ:
“Chồng con đất lạ gửi mồ
Ba năm đã trọn, đợi chờ chi con!”
Con lớn con khôn
Biết lượm trấu, quờ rơm giúp mẹ
Nghe xóm chòm xưa kể
Thuở mẹ mười lăm
Tóc xoã tầm lưng, tiếng hát trong ngần
Chỉ ngũ sắc bay tua đôi nọc cấy
Mẹ trỗi giọng
cu cười lặng gáy
Mạ cầm tay, trai trẻ ngây nhìn
mai mối đi về... cỏ lấp đường quen
Người ta sợ nàng dâu tài sớm yểu!
Đêm đêm con nũng nịu
Mân mê vú mẹ, nằn nì
“Mẹ ơi, mẹ hát con nghe
Mẹ cứ hát như hồi còn con gái!”
Nước mắt mẹ rơi (...)
Giật mình con cũng khóc theo
Lược cưới dần thưa
- tóc mẹ rụng nhiều
Con vẫn chưa bao giờ nghe hát!
Đời cách mạng dạy con biết khóc
Biết yêu
- đứng thẳng người
Lao vào dĩ vãng xa xưa
Nhận mặt kẻ thù đã đẩy cha con đi chết
Những trưa nắng hành quân
qua thôn làng cháy khét
Trong chiến tranh con tìm nghĩa chiến tranh
Đêm sao lu, nhìn bốt giặc nép mình
Nóc ngơ ngác lá cờ tam sắc
Con như thấy: thuở nào trên đất Pháp
Bóng cha con tì súng nhớ quê hương
Máu dân nghèo thuộc địa Đông Dương
Đã đổ cho ai
trong chiến tranh thứ nhất?!
Con càng hiểu vì đâu mẹ không thể hát
Như ngày xưa: tóc mẹ xanh xanh
Chiều nay
Trên sóng điện phát thanh
Điệu hò cấy Gò Công rì rầm giọng biển
Như tiếng chim cu trưa hè âu yếm
Chơi vơi
sực nước hương đồng!...
Tiéng hát xưa mẹ nhốt chặt trong lòng
Ép thành sữa nuôi con côi cút
Tiếng hát đã mười năm nín bặt
Trong thép gai, đai lửa quê nhà
Giờ đây cất cánh bay xa
Từ lòng Hà Nội thiết tha hoà bình
Vang lên ý chí tâm tình
Tưởng như lời mẹ riêng mình gửi con!
Nghe tiếng hát quê hương thương nhớ
Tâm hồn con cháy đỏ: Một ngày…
Mẹ dù tóc bạc gió bay
Còn đâu giọng hát như ngày xa xưa
Dù quê ta đồng khô, bếp lạnh
Mỹ Diệm đang bắt lính dồn làng
Máu dân nghèo khổ miền Nam
Quyết không vì cuộc tương tàn chiến tranh
Để tiếng hát trong lành phải tắt
Như ngày xưa mẹ mất cha con
Mẹ ơi!
Khi sóng nước Cửu Long giang
toả sáng ngày vui Thống Nhất
Con mẹ trở về
Giữa bốn bờ tre
Con sẽ hát những lời mẹ hát
Con sẽ ca những điệu mẹ ca
Con sẽ làm thơ ca ngợi ngày mùa
Cho mãi mãi quê ta:
Không còn những đêm dài nước mắt
Những em bé không như con côi cút
Những tóc xanh không sớm chít tang chồng
Chân đê… bãi mía… cánh đồng
Có muôn thiếu nữ tung lòng bay cao!...
Hà Nội, 10-1956
Quảng cáo
Chúng tôi vừa nhận được tập thơ Cửa biển của bốn tác giả gửi tặng, nhà xuất bản Văn nghệ phát hành. Tập thơ dày 114 trang in đẹp gồm có:
Tiếng hát quan họ | của | Hoàng cầm |
Bốn bài thơ | của | Lê Đạt |
Những người trên cửa biển | của | Văn Cao |
Cách mạng tháng Tám | của | Trần Dần |
Xin cảm ơn bốn tác giả và trân trọng giới thiệu tập thơ Cửa biển với bạn đọc.
Nhân văn
Quảng cáo
Nhân văn số 6 sẽ đăng thơ Hữu Loan, thơ Yến Lan và một chuyện ngắn của Mai Hanh: “Xuống trần”.
Nhân văn số 6 sẽ đăng nhiều tài liệu quan trọng về Ba Lan.
Quảng cáo
Sáng tạo,báo sân khấu điện ảnh. Số 2 sẽ ra ngày 20-11-1956 có nhiều bài quan trọng về phim Liên Xô, về sân khấu Việt Nam. Nhiều tranh ảnh đẹp – giá 300 đ.
Trần Duy
Thành thật đấu tranh cho tự do dân chủ(tiếp theo kỳ trước)
Hoàng Đạo tìm đến một anh bạn muốn góp tiền vào Nhân văn để đe doạ làm cho anh sợ phải rút lui. Hoàng Đạo lại tìm đến các nhà in dèm pha xui giục làm cho chủ e ngại, thợ hoang mang, đình đốn cả công việc in Nhân văn.
Anh em công nhân nhà in X.T. cũng thắc mắc không biết tờ Nhân văn phản động ở chỗ nào và tại sao phản động mà chính phủ không cấm nó, lại phải để cho những kẻ đội lốt danh nghĩa công đoàn vận động phá hoại nó?
Chúng tôi tự hỏi: Hoàng Đạo dựa vào một thế lực nào để dám trắng trợn vi phạm đến tự do báo chí, tự do tư tưởng như vậy?
Số một ra đời. Rồi tiếp số hai và ba. Kiểm điểm qua các số báo:
Nhân văn chỉ nêu lên những khuyết điểm mà cán bộ vì quan liêu, hẹp hòi, bè phái, máy móc đã gây nên tác hại, chứ tuyệt đối không đả động đến những nhược điểm xã hội mà hiện nay vì điều kiện kinh tế, tài chính, tổ chức chúng ta chưa có khả năng khắc phục được.
Ý muốn của Nhân văn là vậy. Thế mà tờ báo Nhân dân, là tiếng nói của Đảng, đối với Nhân văn như thế nào?
Việc đáng chú ý đầu tiên là bài phê bình đăng trên báo Nhân dân ra ngày 25-09-56. Bài ấy buộc lỗi chính tôi đã dụng ý nói xấu chế độ ta, buộc lỗi bằng một luận điệu vu vơ, xuyên tạc mà chúng tôi đã vạch rõ trong bài trả lời đăng trên báo Nhân văn số 2.
Trong bài trả lời, chúng tôi đặt trách nhiệm chính vào bạn Nguyễn Chương và trách nhiệm phụ vào bộ biên tập báo Nhân dân. Chúng tôi không đặt vấn đề trách nhiệm với Đảng Lao động. Vì chúng tôi cho rằng việc làm của bạn Nguyễn Chương là manh động và việc làm của bộ biên tập báo Nhân dân là sơ suất.
Nhưng báo Nhân dân ra ngày 13-10-56 lại đăng một bài nữa của bạn Nguyễn Chương xác nhận bài trước là hoàn toàn đúng.
Rồi tiếp theo đó báo Nhân dân lại cho đăng bài của Hoàng Xuân Nhị, luận điệu buộc tội vu cáo vẫn là một, nhưng ẩn dưới một hình thức trí thức sách vở hơn.
Như vậy là có chủ trương hẳn hòi chứ chẳng phải là chuyện cá nhân manh động hay sơ suất. Vấn đề không còn lài bào báo đúng hay sai; vấn đề là công tác lãnh đạo tốt xay xấu.
Và do đó chúng tôi đặt vấn đề với Đảng mặc dầu đấy mới là thái độ của những bộ phận lưng chừng của Đảng, chưa phải là của Trung ương, lại càng chưa phải là của toàn Đảng.
Chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi có hai trường hợp để chọn lấy một:
- Chúng tôi bị coi là địch thì giải pháp là tiêu diệt.
- Chúng tôi được coi là quần chúng thì giải pháp là lãnh đạo.
Chúng tôi đánh giá Đảng rất cao.
Chúng tôi không thể nào nghi ngờ Đảng lại sai lầm đến nỗi coi chúng tôi là địch.
Vậy chỉ có một con đường là những bộ phận lưng chừng của Đảng phải coi chúng tôi là quần chúng và lãnh đạo chúng tôi.
Về phía chúng tôi, chúng tôi đã không ngồi chờ Đảng phải tìm đến chúng tôi mà lãnh đạo. Chính chúng tôi đã tìm đến Đảng để yêu cầu được lãnh đạo, để cố tranh thủ sự lãnh đạo. Xin kể sơ qua vài sự việc chính:
- Trước khi Nhân văn ra số 1 chúng tôi đã viết thư cho ông Tố Hữu là người phụ trách Tuyên huấn Trung ương, đề nghị ông hướng dẫn và giúp đỡ. Sau đó chúng tôi lại yêu cầu được gặp ông; đôi bên đã gặp nhau và chúng tôi ngỏ ý mong được giúp đỡ về tinh thần là chính.
- Nhân văn số 1 ra đời có lời tuyên bố tự đặt mình dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
- Sau khi Nhân văn ra số 1, có thư gửi các ông Thủ tướng, Tổng Bí thư Đảng Lao động, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, Trưởng ban Thường trực Quốc hội, Bộ trưởng Văn hoá (của Chính phủ) Bộ trưởng Tuyên huấn của Đảng, Chủ tịch U.B.H.C Hà Nội, Bí thư Đảng bộ Lao động Hà Nội và Thường trực Hội Văn nghệ, yêu cầu luôn phê bình chỉ bảo.
- Trong hầu hết các bài từ số 1 đến số 3 đều nêu cao lòng tin tưởng của chúng tôi đối với sự lãnh đạo của Trung ương Đảng.
Đến thế mà thái độ cơ quan ngôn luận của trung ương của Đảng vẫn tạo ra tình thế đối lập thì quả là cố tình. Báo Nhân dân có quyền không đồng ý với một số bài của báo Nhân văn, có quyền phê bình tranh luận. Nhưng không thể sử dụng cái uy thế của Đảng để buộc tội, gán ghép cho Nhân văn những danh từ nguy hiểm về chính trị, rồi in thành giấy trắng mực đen trên hàng chục vạn số báo gửi đi khắp nơi, gây cho nhân dân các tỉnh một nhận định sai lầm tai hại về chính trị với nhóm Nhân văn.
Đó là dùng phương pháp hành chính để tiêu diệt địch chứ không phải là phương pháp phê bình để đấu tranh văn học đối với bạn.
Thật là lạm dụng quyền hạn và những phương tiện tuyên truyền mà nhân dân và Đảng đã trao cho. Những hành động ấy của báo Nhân dân không phải là lãnh đạo theo nguyên tắc của Đảng.
Báo Nhân văn ra đời bị nhìn bằng con mắt lệch lạc ác độc.
Nó bị một số người lãnh đạo đối xử như thù địch:
- Sử dụng báo chí biến cuộc phê bình Nhân văn thành một cuộc thoá mạ, gieo rắc một dư luận hoàn toàn sai sự thật, nhất là ở các tỉnh mà Nhân văn chưa phát hành tới được.
- Sử dụng những buổi nói chuyện ở các trường học, đem báo Nhân văn ra gợi cho học sinh sinh viên trẻ tuổi những nhận xét lệch lạc đối với báo Nhân văn và những người cộng tác báo Nhân văn.
- Vận động các đoàn thể cơ quan không được đọc báo Nhân văn.
- Có nơi cán bộ khu phố đi phổ biến giải thích không nên đọc báo Nhân văn.
- Những cơ quan có thẩm quyền về việc phân phối vật liệu như Sở Báo chí Trung ương và Mậu dịch đã hạn chế cung cấp số giấy.
Tình trạng trên tuy có nguy hại, nhưng không nguy hại bằng biện pháp sau đây: một số người lợi dụng tình hình thống nhất Bắc Nam, gặp bước khó khăn, nhiệt tình đòi hiệp thương của đồng bào, cán bộ miền Nam.
Họ đổ cho Nhân văn đã gây khó dễ cho Đảng trong việc thống nhất Bắc Nam, Nhân văn làm chậm hiệp thương, Nhân văn có tội với miền Nam. Có người lại ký tên trá hình mượn tiếng nói của miền Nam đăng ở một tờ báo hàng ngày, vận dụng tình cảm để tranh thủ quần chúng và đẩy quần chúng đối lập với Nhân văn.
Nếu xảy ra tình trạng hai hàm răng cắn phải lưỡi thì tội ấy không phải do Nhân văn gây ra, càng không phải của cán bộ miền Nam, mà tội ấy là tội của những người lạm dụng chính nghĩa, đội lốt cách mạng để là những việc phi nghĩa, phi cách mạng.
Nhưng đó là những chuyện đã qua. Mong rằng những cái đã qua sẽ không tiếp tục.
Các bạn,
Chúng ta có thể hiểu nhau được lắm. Chỉ cần một chút thành tâm và cố gắng gần gụi nhau.
“Đất nước thịnh hay suy, kẻ thất phu cũng có trách nhiệm”, chúng tôi sẽ không sợ dối lòng mình, hổ thẹn với lương tâm khi chúng tôi nói: chúng tôi làm như vậy là vì chúng tôi yêu nuớc, yêu chế độ. Chắc các bạn không lạ gì trên đất nước tươi đẹp của chúng ta còn rớt nhiều tệ lậu đương kìm hãm bước đi của dân tộc, đương xâm phạm đến uy tín và sự nghiệp của Đảng, đến đời sống của dân.
Chế độ ta sẽ hấp dẫn biết bao, lớn mạnh biết bao nếu thanh toán được những tệ lậu đó. Chúng tôi muốn đóng góp phần của chúng tôi với Đảng với dân, giúp Đảng, giúp dân trong phong trào mở rộng dân chủ, sửa chữa sai lầm, xây dựng miền Bắc tốt đẹp, đẩy mạnh cuộc đấu tranh cho thống nhất.
Mục đích của chúng tôi và của các bạn chắc cũng chỉ là một. Nhưng phương pháp, ý kiến có đôi chỗ khác nhau. Chúng tôi không yêu cầu các bạn tán thành tất cả mọi ý kiến của chúng tôi. Chúng tôi chỉ đề nghị các bạn bình tĩnh và thẳng thắn đấu tranh, bàn bạc thiệt hơn với nhau, cái gì có lợi cho dân cho nước thì làm, không nên thủ đoạn đối phó, gây ra cảnh anh em trong nhà đánh lẫn nhau.
Đất nước đương gặp khó khăn. Việc mở rộng dân chủ, vận dụng tất cả mọi khả năng sáng kiến của quần chúng vào việc sửa sai dựng nước là vô cùng cần thiết.
Chúng ta phải thành thật tìm hiểu nhau hơn.
Chúng tôi tin ở sự sáng suốt lãnh đạo và giúp đỡ của Trung ương Đảng.
Chúng tôi tin ở sức mạnh của chân lý, sự giám sát và xây dựng nhiệt tình của quần chúng.
Chúng tôi tin ở sự cố gắng tìm hiểu nhau của tất cả chúng ta.
Lịch sử đang đi những bước lớn. Những cái gì cản trở phong trào tự do dân chủ, cản trở bước đi lên của dân tộc nhất định sẽ bị gạt ra ngoài.
Cao Nhị
Nửa tháng liên hoan phim Liên Xô: Mấy bộ phim dở
Trong báo Văn nghệ số 145, khi giới thiệu nửa tháng liên hoan phim Liên Xô và khen những phim Ô-ten-lô v.v… tôi có nhắc qua tới những bộ phim khác như Ngai vàng sụp đổ, Hai sĩ quan và chê nó là dở.
Có người trách “dở như thế nào, phải phân tích cho có lý lẽ, không được hạ bút nói vô trách nhiệm như thế, ảnh hưởng xấu đến nửa tháng phim của người ta”. Vậy tôi xin trở lại góp ý kiến về mấy bộ phim đó. Và vẫn giữ nguyên ý kiến cũ của tôi: phim dở!
Một chứng cớ hiển nhiên và khá hùng hồn, là bây giờ ngồi viết bài này, ôn lại trong đầu những hình ảnh diễn biến của hai bộ Ngai vàng sụp đổ và Hai sĩ quan, đầu tôi bỗng mờ mịt hẳn đi, không còn nhớ lại được gì. Cái đầu quên, mà thực cả tấm lòng lưu luyến, vấn vương với người trong phim cũng không có nữa. “Miếng ngon nhớ lâu, điều đau nhớ đời.” Không phải xem đến hai lần hay cần phải có trí nhớ cao, tôi nhớ mãi nét mặt đau khổ hãi hùng cua bà mẹ Pê-la-ghê trong phim Người mẹ, tôi thương mãi cái chết oan khiên của Đét-đê-môn trong Ô-ten-lô, từng lời từng lời của Ô-ten-lô vang bên tai tôi, có sức cuốn hút lạ thường, thông cảm vô cùng với con người vừa dũng mãnh vừa yếu đuối, con người say mê điên dại Ô-ten-lô!
Thế mà đến Ngai vàng sụp đổ hay Hai sĩ quan dư âm còn để lại cái gì? Không có gì cả, của đáng tội, trong Ngai vàng sụp đổ có chuyện đôi bạn tình Sê-ra-li và Ôi gun cũng khá là kỳ thú. Anh đi dẹp giặc, chị ở nhà đợi anh, trong cơn binh lửa, chị mắc tai ương; nhưng đến khi giặc tan, anh chị lại gặp nhau, gia đình đoàn tụ, vui vẻ cả. Nhưng ác một điều, câu chuyện tình đó đã lồng vào nhiều câu chuyện khác: âm mưu thắng đế quốc, dũng khí của nhân dân, tài đánh nhau của bộ đội, lại cả bộ mặt nham hiến gớm ghiếc thằng địa chủ đi ăn cướp ái tình. Người xem rất kêu về cái đoạn kết dựng lên cái ngai vua rồi đạp nó gục xuống, tượng trưng cho ngai vàng sụp đổ. Nhưng tôi không nói tới diễn xuất hay những màn bố trí giả tạo. Điều quan trọng hơn, là công chúng xem phim rất không hài lòng về cái lối xây dựng phim, xây dựng con người rất vá víu, chắp nối ấy, nó không tài nào đi sâu và thể hiện được đúng hình dáng con người thật. Kinh nghiệm trong các tác phẩm văn nghệ Việt Nam mấy năm nay, kịch hay chuyện nói đến một trăm thứ và đều đá thêm một tí tình cho nó có “yêu đương”. Đó là lối xây dựng công thức không thế làm thoả mãn người xem. Cho nên phim Ngai vàng sụp đổ dù đã có được một số hình ảnh khá sắc sảo, cảnh đồng chí Pho-Rum-Dê chỉ huy chiến đấu, cảnh nhường nhau bi đông nước, cuối cùng đổ nưới tưới cho súng… vẫn không để lại cho người xem một chút cảm giác nào dễ chịu cả. Đến nỗi có anh cán bộ nọ ở Thông tấn xã phát biểu “xem xong Ngai vàng sụp đổ thì lòng ưa thích của tôi cũng sụp đổ theo”.
Sang đến Hai sĩ quan; cách xây dựng câu chuyện lại càng tham lam, chắp nối: hoàn toàn một món “tạp pí lù” rất dở. Tôi đã không hài lòng về việc ban tổ chứ xếp phim Ngai vàng sụp đổ để khai mạc nửa tháng phim, đơn thuần bộ phim đó nói lên cuộc cách mạng chống Nga hoàng, phù hợp với việc kỷ niệm Cách mạng tháng 10 Nga.
Đến Hai sĩ quan thì tôi hoàn toàn bất mãn, nó còn thua xa những bộ phim thông thường khác. (Một gia đình lớn, Thử thách lòng chung thủy...). Tại sao lại xếp nó vào chương trình của nửa tháng phim?
Chúng ta biết rằng Hai sĩ quan là bộ phim màu sản xuất năm 55 (cũng như Ngai vàng sụp đổ). Tài tử trong phim đều gồm những diễn viên trẻ tuổi rất có triển vọng. Vậy mà, phim chiếu lên, qua bao nhiều hình ảnh, tình tiết, không đem lại được một tiếng vang nào cả. Người ta rất khó theo dõi cái câu chuyện đời và câu chuyện lòng của anh đại uý trẻ tuổi vai chính trong phim. Anh hỳ hục đi điều tra cái vụ án ví mật đã giết đại uý Ta-ta-ri-nốp bỏ xác trên Bắc cực. Chính Têma-ta đã giết hại ông để chiếm đoạt chị dâu và cái danh vọng của anh giai mình. Tên giáo sư khốn khiếp ấy bị lột mặt nạ. Thế rồi anh đại uý trẻ tuổi nọ lấy con gái đại uý Ta-ta; anh lại kế tiếp sự nghiệp bố vợ, lái máy bay đi thám hiểm trên Bắc cực…
Tôi tóm tắt câu chuyện phim trong hai dòng. Thực ra, rất nhiều đồng bào, sau khi xem xong Hai sĩ quanđều lắc đầu phàn nàn “chả hiểu các ông ấy nói gì!”. Bởi đạo diễn đã lan man dẫn ta đi hết cảnh này sang cảnh khác, từ lúc anh đại uý còn là chú bé con, vớt được ở dưới hồ cái ba lô thư bí mật, qua đại diện anh trở thành chàng thanh niên dũng cảm. Người xem có thể nhìn thấy bộ mặt bỉ ổi của tên giáo sư đã giết anh mình, cả bộ mặt bỉ ổi của nhân viên giúp việc lão ta, suýt giết cả bạn ngoài mặt trận để cướp vợ bạn… Tịnh không bắt gặp con người thực, một anh đại uý có thực, tên là Sa-ni-a yêu một người con gái tên là Ca-chi-a bảo bệ đến cùng tình yêu ấy, chống lại lão già nham hiểm Ni-cô-lai. Mặc dầu báo điện ảnh Liên Xô khen: “Hai sĩ quan nói lên một cuộc tình son sắt và dũng cảm…”, tôi chỉ thấy tình yêu đó là giả tạo, vì lẽ giản dị cặp tình nhân đó phải lao vào nhiều tình huống ly kỳ, lằng nhằng, nghĩa là cũng giả tạo nốt. Tôi không hiểu thâm ý của đạo diễn Văng-ghê-Rốp khi muốn xây dựng một câu chuyện tình dũng cảm, sao lại phải mở đầu bộ phim một cách khêu gợi bí mật thế? Và tạo nên làm gì một bộ mặt bỉ ổi như tên phản bộ Ni-cô-lai nó chi phối cả câu chuyện phim, và làm lạc mất chủ đề tình yêu? Khiến người xem cứ lầm theo rõi mãi một cuộc điều tra bí mật kẻ đã ám hại đại uý Ta-ta-ri-nốp.
Người ra thường nói: phim Liên Xô nhiều khi non kém về kỹ thuật, nhưng nội dung tư tưởng của nó bao giờ cũng cao!
Theo tôi, - mà vấn đề này cũng cũ rồi - không bao giờ nên tách rời nội dung với kỹ thuật. Một bộ phim mà kỹ thuật kém thì tất nhiên nó không thể hiện được cái nội dung tốt ấy theo ý muốn tác giả.
Thử nhớ lại mà xem: mấy bộ phim Liên Xô khác được hoan nghênh trong năm nay như Nữ tài từ dạy hổ hoặc Người yêu phương xa thì thực chất nó như thế nào? Con người trong phim rất nhạt, tình yêu lại càng nhạt hơn. Và cái lối xây dựng chủ đề tình yêu nhẹ nhàng, công thức gán ghép gợi cười cho người xem bằng những trò hiểu lầm nghộ nghĩnh không thể đáp ứng được với những đòi hỏi của người xem có suy nghĩ.
Ngay như trong Câu chuyện bỏ dở theo tôi cũng là bộ phim khá, cái lối xây dựng nhân vật rất công thức một chiều của tác giả cũng làm công chúng không ưng chút nào. Giữa là một chị bác sĩ đẹp người, đẹp nết, hai thanh niên yêu chị ta: một anh bác sĩ kém tài kém đức, thô bỉ ra mặt; và một kỹ sư què những dĩnh ngộ, tích cực, tài đức kiêm toàn Sự lựa chọn đã quá rõ ràng, anh bác sĩ nọ hoàn toàn bị “chết cháy” ngay từ khi mới xuất đầu lộ diện. Hai phe rõ ràng một cách thô bạo như thế trong việc xây dựng nhân vật thì gây sao được những bất ngờ cần thiết và thú vị cho người xem? Con người thật trong đời có đen trắng dứt khoát như thế bao giờ? Hoạ có là người máy trong tưởng tưởng!
Đồng chí Gờ-rô-sép nhận định về điện ảnh Liên Xô: "Trình độ nghệ thuật điện ảnh của chúng ta còn thấp quá" (báo Người Cộng sản tháng 10-1955). Tôi lại nhớ tới đạo diễn Ghê-ra-xi-mốp đã rất nhiều lần phê phán những mẫu người, nhất là những mẫu tình yêu méo mó, khô cạn "tưởng như trên giời rơi xuống, không gắn bó gì với sinh hoạt con người Xô-viết bình thường". Tôi đơn cử ra hai bộ phim Ngai vàng sụp đổ và Hai sĩ quan, không phải để phân tích sâu xa vì nó dở quá, không biểu hiện được gì, ý tôi muốn để chúng ta cùng rút kinh nghiệm trong việc làm kịch bản phim hiện nay.
Không phải chuyện cười
Thanh Tình(sinh viên)
Con số dân chủ
A: Ở nước ta, và nhiều nước khác, đều lấy tên các danh nhân anh hùng cứu quốc để đặt tên trường học. Đó là một cách tỏ lòng biết ơn những người suốt đời tận tuỵ hiến thân cho nền văn minh của nhân loại hay hy sinh cho độc lập tự do của dân tộc. Không hiểu sao dạo này nhiều trường mang những số thay tên các vị đó. Vừa khó nhớ, khó tìm lại vô nghĩa.
B: Cậu lạc hậu quá. Đặt tên trường bằng tên các vị danh nhân là phong kiến đế quốc… Bằng những con số mới là dân chủ và tiên tiến.
Chống công nông chủ nghĩa
(Trong giảng đường) Giáo sư: Chúng ta cương quyết chống công nông chủ nghĩa, mọi học sinh, sinh viên, dù xuất thân từ thành phần nào cũng được đối xử như nhau.
(Ngoài sân trường) Sinh viên: Sao các trường đại học năm nay nhận những người có trình độ lớp 7 lớp 8 vào học mà nhiều người tốt nghiệp tú tài và lớp chín bị gạt ra nhỉ?
Bút Chì
Tài liệu để học tập hay để đánh đố?
Ngẫu nhiên tôi được xem một tập tài liệu học tập về kinh tế chính trị của một lớp nghiên cứu chính trị.
Đọc một lượt, tôi giật mình đánh thót. Quái! Tài liệu học tập gì mà lạ lùng thế này? Ý nghĩa thì tối tăm, văn chương thì lủng củng, còn thí dụ thì toàn là sự việc ở bên Trung Quốc!
Trong tài liệu có mấy tiếng “kỹ năng lao động” trích ở cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, không ai hiểu là gì bèn đem so với bản tiếng Pháp thấy dịch là “habitudes de travail” và so với bản tiếng việt do nhà Sự thật xuất bản thấy dịch là “thói quen làm việc”. Gớm! Có thế mà đánh đố nhau mãi.
Thế rồi lại có câu: “Ví như ở nước ta, nếu không quét sạch chế độ kinh tế nửa phong kiến, nửa thuộc địa…” mới đọc ai chẳng tưởng nước ta đây là nước Việt Nam, ai ngờ nước ta đây lại là nước Trung Hoa!
Nhưng như thế cũng chưa đáng ngạc nhiên bằng những đoạn cắt nghĩa rất kỹ, càng kỹ bao nhiêu thì lại càng làm cho nười ta rối trí bấy nhiêu và cuối cùng nếu không phát khùng thì cũng nhức óc. Tôi xin trích một đoạn rất điển hình và cam đoan không sai một chữ hay một dấu chấm câu:
“Phương thức sản xuất là gì? Sức sản xuất là quan hệ sản xuất mãi mãi vẫn là hai mặt cần thiết cho nền sản xuất xã hội, nền sản xuất xã hội mãi mãi bất cứ lúc nào cũng thực hiện trong những điều kiện lịch sử nhất định, nghĩa là trong những điều kiện sức sản xuất và quan hệ sản xuất nhất định. Sự thống nhất sức sản xuất và quan hệ sản nhất định đó trong quá trình sản xuất tư liệu vật chất hiện thực là phương thức sản xuất với một tính chất nhất định trong lịch sử. Thế cũng có nghĩa là phương thức sản xuất là thể thống nhất hoặc phương thức kết hợp sức sản xuất nhất định và quan hệ sản xuất nhất định trong quá trình sản xuất tư liệu vật chất.”
Đấy! Tài liệu học tập như thế đấy! Ai không hiểu thì người ấy kém thông minh. Nhưng nói thế thì chỉ được lòng có một mình ban phụ trách lớp nghiên cứu mà mất lòng cả nước Việt Nam.
Quảng cáo
Tìm đọc Đất mới tập 1 - Chuyện sinh viên. Minh Đức xuất bản.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhTương lai trong lòng quá khứ
06/02/2009Nguyễn QuânBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCách đây một thế kỷ, những người khổng lồ
12/05/2009Nguyên NgọcCái tâm đời thường
20/10/2005Phan Chí Thành