Miền tinh thần tự do

08:37 CH @ Thứ Sáu - 08 Tháng Năm, 2015

Hỏi: Thưa chú , cháu đã phân vân hơn 1 năm nay khi tìm cách liên lạc với chú. Giờ cháu không thể trì hoãn hơn nữa và cháu quyết tâm đến gặp chú. Có ai đó từng nói rằng “một trí tuệ hạng ba chỉ hạnh phúc khi nó đứng cùng với đa số, một trí tuệ hạng hai chỉ hạnh phúc khi nó đứng cùng thiểu số”, nhưng cháu tin rằng còn có một loại trí tuệ khác không mưu cầu đứng cùng đa số hay thiểu số, một dạng trí tuệ mà nó hạnh phúc chỉ vì nó nghĩ và được nghĩ, tức là nó được thôi thúc bởi các qui luật tinh thần của chính nó chứ không phải bởi cái gì khác. Cháu linh cảm chú là một người như thế. Cháu muốn tìm đến chú để kiểm nghiệm cái linh cảm ấy.

Cháu có cảm giác trong vòng hai ba năm trở lại đây, cháu không còn độ nhạy để quan sát những sự kiện xã hội như trước. Cháu muốn quay về trạng thái ngày xưa của cháu, một cậu bé nhà quê mới ra Hà Nội học đại học, đọc sách gì cũng thích, nghe cái gì cũng hay, không có định kiến nên tiếp thu mọi thứ rất nhanh. Bây giờ cháu cảm giác mình không còn độ nhạy như ngày xưa nữa. Cháu muốn tìm đến chú để hỏi khi gặp những bế tắc, những vấn đề trong cuộc sống chú giải quyết thế nào? Chú có cảm thấy có những năng lực tự nhiên mất đi không và chú tìm lại nó như thế nào?

Trả lời: Trong tất cả những quan sát của con người thì quan sát mình là khó nhất. Phật học gọi kết quả của sự quan sát mình là ngộ ra. Nhận ra, ngộ ra chính là kết quả của việc quan sát bản thân mình. Quan sát ấy không phải chỉ là quan sát con người mình mà còn quan sát hình ảnh của cuộc sống trôi vào miền tinh thần của mình như thế nào. Sự tái hiện của các hình ảnh ngoài cuộc sống trong tâm hồn, trong miền tinh thần của một con người giúp anh ta quan sát tất cả các hiện tượng của cuộc sống một cách kiên nhẫn hơn. Các hiện tượng của cuộc sống bên ngoài mà không va chạm với mình, với tâm hồn mình và không va chạm với kinh nghiệm vốn có của mình về cuộc đời thì tức là miền tinh thần của mình trống rỗng.

Cái cháu nghĩ là mình đánh mất thật ra không mất đi đâu cả. Trước đây cháu cảm thấy dễ tiếp nhận bởi vì miền tinh thần của cháu là một vùng rỗng, mọi cái cứ thế trôi vào, không bị kiểm soát, không bị đánh giá, không bị kiểm nghiệm. Đến lúc nào đó miền tinh thần của cháu bắt đầu chật ních các ấn tượng rồi thì mọi cái tiếp theo đều khó vào. Khi nào cháu bắt đầu học thì dần dần cháu sẽ có tiêu chuẩn. Khi có tiêu chuẩn cháu sẽ biết đánh giá và lựa chọn. Khi đã biết đánh giá để dẫn đến lựa chọn thì cháu không còn ngây thơ nữa. Đấy được gọi là trạng thái phát triển mang chất lượng văn hóa của một cá nhân. Cháu không mất đi cái gì cả mà chỉ tăng cường năng lực đánh giá và lựa chọn. Cháu bắt đầu cảm thấy mình không hồn nhiên, không dễ dãi nữa tức là cháu đã phát triển. Đó là biểu hiện khách quan của hiện tượng đã phát triển của cháu.

Nên nhớ rằng có hai trạng thái để đánh giá cái mà cháu nói là mất. Trạng thái thứ nhất, nếu cháu được học tập một cách đúng đắn, trải nghiệm một cách đúng đắn thì hệ thống tiêu chuẩn của cháu là đúng đắn. Hệ thống tiêu chuẩn đúng đắn thì kết quả là sự lựa chọn là đúng đắn, tức là các phần tử sống trong miền tinh thần của cháu là những phần tử có chất lượng. Trạng thái thứ hai, những kinh nghiệm cháu được cung cấp bởi những ông thầy dốt, những người bạn dở, kinh nghiệm ấy là sự từng trải của cháu đối với các hiện tượng méo mó của đời sống, thì cháu sẽ có một hệ tiêu chuẩn xấu và không chuẩn. Hệ tiêu chuẩn ấy tạo ra một sự lựa chọn không chuẩn, làm cho miền tinh thần của cháu méo mó và ảnh hưởng đến toàn bộ năng lực phát triển của cá nhân cháu. Cho nên người ta mới phải tìm cách đi Tây, đi Mỹ học để tìm kiếm những giá trị chuẩn. Giá trị chuẩn là bộ thước đo năng lực lựa chọn của cháu đối với những yếu tố định gia nhập đời sống tinh thần của cháu.

Hỏi: Nếu không có điều kiện sang phương Tây để tiếp xúc với những giá trị đó thì cháu phải làm thế nào?

Trả lời: Vì thế nên chú mới viết sách. Chú viết sách để cung cấp cho những người không có điều kiện sang phương Tây, không có điều kiện để học một cách cẩn thận, hay được học một cách sai lạc. Chú có đi dự một buổi họp với phụ huynh sinh viên ở một trường đại học. Tất cả mọi người đều muốn thu hồi vốn nhanh từ đứa con của mình sau khi nó học xong. Các phụ huynh đều chất vấn cô giáo là học thế này con tôi ra trường có thể làm gì. Chú có nói với các vị phụ huynh là trong tất cả các ngốc nghếch mà cha mẹ có đối với con cái, thì ngốc nghếch lớn nhất là đòi thu hồi vốn sớm từ con mình.

Hỏi: Thưa chú, ngoài môi trường bên ngoài thì có cách thức nào tìm kiếm năng lực nhận thức đúng sai bên trong chính mình không?

Trả lời: Có, nhưng nếu nói về nguồn gốc thì nó đều bắt đầu từ bên ngoài, bắt đầu từ việc tu dưỡng, rèn luyện. Các hệ tiêu chuẩn của con người trở nên đúng đắn là do tính khách quan của nó. Cháu không thể tìm một cách vu vơ trong đời sống riêng của cháu. Nó lọt vào trong đời sống riêng của cháu chứ không phải nó mọc ra từ đời sống riêng của cháu.

Hỏi: Nó lọt vào trong đời sống riêng của cháu, nhưng ý định chủ quan của cháu sẽ quyết định cái đó đúng hay sai?

Trả lời: Đúng! Nhưng ý định chủ quan của cháu là một phẩm hạnh được rèn luyện do sự va chạm, do kinh nghiệm của cháu đối với những thứ từ bên ngoài vào.

Hỏi: Vậy còn ý chí tự do?

Trả lời: Tự do không nhiều như cháu tưởng. Tự do chính là cháu lựa chọn những thứ bên ngoài lọt vào miền tinh thần của mình. Toàn bộ chất lượng của tự do chính là quyền lựa chọn, từ quyền lựa chọn ông tổng thống đến quyền lựa chọn cái bánh, đấy là quyền lựa chọn cái lẽ phải mà cháu theo,

Hỏi: Lẽ phải mà mình theo tuy là tự do thật nhưng là tự do của Chúa ban?

Trả lời: Nó có màu sắc Chúa, có cái cao thượng có tính chất tinh thần Chúa, mà Chúa cũng là khách quan. Các lẽ phải mà mọi người đều nhận thấy, đều thừa nhận một cách có vẻ tự nhiên ấy chính là những lẽ phải đã được thừa nhận một cách phổ biến. Nó phổ biến đến mức trở thành phổ quát. Phổ biến tức là nó xuất hiện nhiều, còn phổ quát tức là nó hội tụ đến một giá trị, một sự thống nhất.

Hỏi: Vậy có cái gì mà tuy các hiện tượng bên ngoài khách quan, nhưng vào bên trong cháu sự lựa chọn ấy là do chủ quan của cháu. Ví dụ, trong “Phê phán lý tính thực hành” của Kant, chú nghĩ sao về quan điểm của Kant về đạo đức học?

Trả lời: Chú khác cháu. Chú lao động mãi rồi mới có được một số kiến thức và chú đọc Kant để kiểm nghiệm một chút, nhưng sau đó tảng lờ ngay. Nếu cháu hỏi chú về Kant thì chú trả lời là dọc đường đi tìm chân lý, chú gặp Kant như một người quen biết. Chú không để thì giờ để khâm phục vu vơ. Để có thể hiểu về Kant và khâm phục ông ta, có những người mất cả cuộc đời và kết quả là không có cái gì của mình. Khi nào cháu lớn tuổi, cháu sẽ có kinh nghiệm để hiểu rằng cần phải giữ gìn tự do trí tuệ của mình.

Hỏi: Tức là cháu hiện nay gần như một kẻ mông lung, một kẻ gần như bán nhượng phần tự do, phần hiểu biết của mình cho những người mà cháu nghĩ là cao hơn mình?

Trả lời: Cũng không phải thế. Đấy là giai đoạn tất yếu của một con người. Chú chỉ nói với cháu là đi tiếp thì như thế nào, cần tránh cái gì, chú không nói cháu sai hay đúng, chú cũng không thích nói rằng chú đúng hay ai đúng. Bởi vì nếu đi theo hướng ấy cháu sẽ thấy triết học là một khoa học của kẻ đố kỵ, các nhà triết học đố kỵ với nhau và dẫn đến một thực trạng triết học không hề liên quan đến đời sống. Họ không giúp đỡ con người nhiều lắm, trừ những người đầu tiên khi tất cả mọi người chưa có gì. Nếu đến bây giờ chúng ta vẫn đọc Kant để hiểu Kant hơn hay kém Hegel thì chúng ta sẽ phạm phải sai lầm là không có ý kiến của mình.

Cháu cứ làm việc của mình, tự rút ra kinh nghiệm của mình. Khi đã có ý chí để đi tìm ra chân lý, tìm ra lẽ phải và ý thích của mình thì đừng đi theo ai, đấy là lời khuyên của chú. Cuộc sống có rất nhiều thứ mà khi cháu hiểu nó là đủ để cháu tự tin rồi. Nhiều người không chịu học thật, không chịu đọc thật, đặc biệt là không chịu nghĩ thật cho nên ý kiến của họ là ý kiến của người khác. Những cái chú viết và phổ biến với mọi người không phải để quyến rũ hay để trở thành thầy của ai. Chú đã từng viết trong sách là trong tất cả những tham vọng thì tham vọng làm thầy người khác là ngốc nghếch nhất. Chú đã từng khuyên các đồng nghiệp là nếu đọc Marx mà không ra khỏi Marx, đọc Kant không ra khỏi Kant được thì tốt nhất không đọc họ. Sự khôn ngoan một cách hồn nhiên, một cách bản năng đôi khi chính xác hơn nhiều so với sự lựa chọn có chất lượng triết học. Triết học chỉ là cái để người ta xác nhận chứ không phải là công cụ để tìm kiếm. Nếu định sử dụng triết học như một công cụ để tìm kiếm thì cháu luôn đi sau mọi người và không cẩn thận thì không ra khỏi nó được và trở thành một kẻ lẩm cẩm. Cuộc sống có rất nhiều thứ thuyết phục cháu, dạy cháu. Những người dạy cháu sẽ đến rất bất ngờ từ một góc nào đó, từ một khía cạnh nào đó, từ một việc vặt vãnh nào đó.

Hỏi: Cháu học ngành thương mại quốc tế, nhưng lựa chọn ban đầu của tuổi 18 cháu nghĩ là có nhiều cái không thật chuẩn xác. Khi va chạm nhiều thì cháu cảm thấy thích nhiều thứ hơn, ví dụ như cháu thích đọc chú , mặc dù những kiến thức ấy cháu không áp dụng được ở trên trường. Cháu đọc chú vì có cảm giác thích thú.

Trả lời: Điều ấy hoàn toàn chính xác. Học người đời để làm một cái gì đó thì không bao giờ làm được, nhưng đọc cái mà mình thích thì cháu sẽ thấy hóa ra ý thích cũng có quy luật của nó. Khi phát hiện ra quy luật ý thích của mình thì người ta sẽ tìm ra quy luật ý thích của người khác. Hiểu được mình thì cháu sẽ hiểu được người. Hiểu được ý thích của người khác thì cháu sẽ biết bán cho người ta cái mà người ta thích và cháu sẽ thành đạt, sẽ có sự nghiệp. Nếu cháu định học và định bắt trước ai đó để làm một cái gì đó mà không phải từ ý thích vô tư thì cháu rất khó thành công. Con người thích cháu một cách ngẫu nhiên, và sự ngẫu nhiên ấy được gọi là số phận.

Hỏi: Những ý nghĩ của cháu xuất phát từ chỗ cháu cảm thấy tù túng, muốn thoát ra khỏi cái không gian mà mình lớn lên. Có cảm giác như người ta xây cho mình ngôi nhà đầy những định kiến, những quan điểm và cháu muốn phá ra để đi.

Trả lời: Chú nghĩ rằng cháu có tự do đi tìm cái mà mình muốn phá ra. Cháu là người xé rào về mặt nhận thức, về mặt văn hóa, về mặt triết học. Điều ấy là tốt, nhưng cháu phải cẩn thận, đến một ngưỡng nào đấy thì phải dừng lại.

Hỏi: Chú nghĩ điểm dung hòa của tự do và trách nhiệm nằm ở đâu?

Trả lời: Tự do và trách nhiệm của ai thì chỉ người đấy hiểu được, đấy là một bí mật hoàn toàn cá nhân. Điểm cân bằng giữa tự do và trách nhiệm chính là số phận. Suy ra cho cùng, trong tất cả các thứ gắn liền với con người thì sự nghiệp là cái người ta để ý nhất. Sự nghiệp bao giờ cũng là tổng các điểm cân bằng giữa tự do và trách nhiệm. Con người lảng tránh, con người né, con người mải chơi, con người do dự một chút trước khi lựa chọn, đấy là những điểm trước cân bằng.

Hỏi: Hiện tại cháu đang có một công việc nhưng cháu không hoàn toàn yêu công việc ấy vì nó không xuất phát từ ý thích của cháu. Nhưng vì trách nhiệm đối với gia đình cho nên cháu để cuộc sống cuốn cháu ra khỏi cái mình thích. Cháu thích những cái chú viết, tức là một chút gì đấy về chính trị học, triết học. Theo chú cháu nên giải quyết như thế nào?

Trả lời: Cháu phải tự cân bằng. Cháu không thể từ bỏ sự nghiệp, không thể từ bỏ niềm đam mê của mình được, bởi vì nếu không có nó, cháu không phải là cháu. Nhưng không hoàn thành trách nhiệm của mình thì cháu cũng không phải là cháu. Không có con người nào tự do tuyệt đối mà con người tự do trong các mối ràng buộc với cuộc sống, và đặc trưng của sự ràng buộc ấy là trách nhiệm. Cháu sẽ lấy vợ, sinh con, phải nuôi vợ, nuôi con. Cái thú vị nhất, cái tài hoa lớn nhất mà con người có chính là xử lý cái mình thích và cái mình có trách nhiệm. Tất cả sự hấp dẫn của con người là ở chỗ ấy. Trong cuốn sách “Cội nguồn cảm hứng”, chú có nói đến lý thuyết về miền tinh thần. Miền tinh thần của con người có 3 tầng: Tầng thứ nhất là tầng thực dụng, tầng thứ hai là tầng tư tưởng và tầng thứ ba là tầng lý tưởng. Tự do là chất dầu bôi trơn để người ta ra vào, lên xuống một cách linh hoạt giữa các tầng ấy. Chú là người tự do. Năm phút sau khi giải quyết xong những vấn đề cực kỳ lý tưởng, chú lại kiểm điểm chuyện làm ăn và làm phép tính về tiền. Tất cả cái thú vị của con người chính là như thế. Để xử lý các mâu thuẫn hàng ngày người ta phải có công nghệ. Công nghệ quan trọng nhất của con người chính là tự do ra vào các miền khác nhau của đời sống tinh thần.

Triết học là một cách suy tưởng, cái thú vị nhất của sự suy tưởng chính là anh hạ cánh xuống anh như thế nào. Kant bay trên đầu con người, bay trên đời sống tinh thần của con người, Kant không đậu xuống con người bao giờ. Đấy là lý do chú không sùng bái các nhà triết học phương Tây. Kant như một kẻ định phân phát cho con người một thứ gì đó, mà con người thì càng ngày càng hiện đại, càng thực dụng, người ta không đọc Kant nữa, chỉ có những kẻ già nua mới đọc. Những người trẻ như cháu đọc Kant sẽ không tìm ra giá trị thực dụng của nó. Khi nào các cháu đọc sách mà tìm thấy ở đó công nghệ giúp mình giải quyết các vấn đề mà mình mơ tưởng, hay giúp mình từ biệt sự mơ tưởng, thì đấy là quyển sách có ích. Bước vào sự đam mê là một công nghệ, rút ra khỏi nó cũng là một công nghệ, công nghệ ấy chính là tự do.

Hỏi: Như vậy cách tiếp cận của chú khác với những người tiền bối là không làm cho cái gì trở nên quá hàn lâm và quá khó hiểu?

Trả lời: Đúng, vì nhiệm vụ của tất cả các triết gia là làm cho con người trở nên thực tế hơn chứ không phải làm cho con người trở nên ngu hơn trước mình. Có những người đọc một tạ Kant cũng không thuyết phục nổi ai. Tự do chính là sự ra vào một cách hồn nhiên giữa các miền khác nhau của đời sống tinh thần, miền thực dụng, miền tư tưởng và miền lý tưởng.

Con người có rất nhiều vấn đề. Ở những nơi không có đói khổ thì người ta thiếu kinh nghiệm về sự đói khổ. Còn ở những nơi không có điều kiện để no đủ thì người ta thiếu kinh nghiệm về sự no đủ. Làm thế nào để con người có kinh nghiệm về sự no đủ ngay cả khi mình đói, mình thiếu, đấy chính là cái chú tham gia vào giải quyết. Một cách khái quát là giải quyết cách con người nhìn sang khu vực của người khác để có thể mường tượng ra cách chung sống với họ. Ví dụ trong luật học người ta có ngành luật so sánh. Luật so sánh là để giải quyết vấn đề cho những người ở nước này đến sống ở nước kia. So sánh luật chống tham nhũng ở Việt Nam với luật chống tham nhũng của Hoa Kỳ như thế nào, xử lý mâu thuẫn giữa bộ luật này với bộ luật kia như thế nào. Đấy chính là những bài toán về điều kiện sống trong các môi trường khác biệt mà con người phải giải quyết.

Bây giờ ở phương Tây người ta không quan tâm đến triết học chơi chơi nữa mà quan tâm đến triết học kinh tế, triết học chính trị, triết học vật lý, triết học khoa học, triết học công nghệ thông tin… Đó là những ngành triết học xử lý các điểm tới hạn của các khoa học, các công nghệ, kỹ thuật. Con trai út của chú học khoa triết học của trường Kinh tế London. Ở đấy Marx là một cái bia tập bắn, mỗi ngày Marx được đem ra bắn nát trong sự phân tích của sinh viên. Việt Nam chúng ta vẫn xem triết học là một thứ cao siêu, nằm ngoài tầm với của mọi người, nhưng đối với phương Tây triết học đã bắt đầu được kéo sát về nấc thực dụng. Chú đã viết trong một quyển sách rằng “tôi viết về tự do như một thứ có thể ăn được”.

Hỏi: Những vấn đề chú đang quan tâm nhất trong giai đoạn hiện nay là gì?

Trả lời: Đất nước, nền chính trị của nó, nền tự do của nó, đời sống kinh tế của nó. Chú quan tâm đến thân phận con người, đến những vấn đề căn bản của con người, trong đó nhân quyền là một điểm có chất lượng trung tâm. Nhưng nhân quyền không phải như là một bộ luật, mà là một triết học, ở đấy người ta phải trang bị cho con người một số công cụ cơ bản để nó tự do.

Hỏi: Theo chú nhân quyền không phải là cái mình mang ra trao đổi với nhà nước, mà trước tiên là để thức tỉnh mình?

Trả lời: Bao giờ cũng thế, cho nên chú mới phân chia tự do ra làm hai miền, tự do bên trong và tự do bên ngoài. Cháu nên đọc kỹ quyển “Cội nguồn cảm hứng”.

Hỏi: Chú có quan điểm gì về nền ngoại giao Việt Nam hiện nay, nó có nhiều ưu điểm hay nhiều nhược điểm trong quan sát của chú?

Trả lời: Không có nền ngoại giao mà cháu nói. Cách hỏi của cháu là cách hỏi của người không có kinh nghiệm đầy đủ về cuộc sống quốc tế. Không có nền ngoại giao, chỉ có những ứng xử đối ngoại mà người Việt Nam bắt buộc phải làm, tập hợp thành các kinh nghiệm đối ngoại. Ngoại giao không phải là cái gì cao sang lắm, ngoại giao là nỗi đau khổ lớn nhất mà người Việt có. Tất cả các dân tộc bé ở cạnh một nước lớn bao giờ cũng có những số phận cực kỳ bất hạnh, nó chỉ có thể khôn ngoan để sống thôi chứ không thay đổi được.

Cháu nói nền ngoại giao tức là cháu nói đến một ý định, một công việc có tính chủ động như là một sự nghiệp. Đấy là những thứ người ta viết ra để nhận thành tích. Đời sống quốc tế hay đời sống đối ngoại của người Việt là cách dùng chữ chính xác nhất cho chuyện này. Nó cũng đúng cho người Lào, người Campuchia, cho người Myanmar. Nền ngoại giao chỉ có đối với người Nga, người Trung Quốc, người Nhật Bản, người Mỹ, người Ấn Độ (nói nền ngoại giao của người Ấn Độ cũng chưa chắc chính xác lắm), tức là họ có các chính sách đối ngoại chủ động. Tất cả các dân tộc bé bé còn lại là đối phó, mà đại bộ phận là đối phó với sự tráo trở, sự đỏng đảnh hay với sự quay quắt của các nước lớn.

Không đặt ra câu hỏi như cháu được. Chưa có cái nền ấy, mà chỉ có những người chạy lon ton giữa chợ, đi tìm kiếm những lợi ích lặt vặt để tìm sự sống sót cho mình và các bộ tộc chính trị của mình mà thôi.

Hỏi: Ý chú là với những nước nhỏ như chúng ta chỉ có được nền ngoại giao lon ton thôi? Ngay cả với Lào và Campuchia cũng thế?

Trả lời: Cháu tưởng là chúng ta tự do, chúng ta lãnh đạo Lào và Campuchia? Khi chúng ta lãnh đạo được cả Lào và Campuchia thì có nghĩa là chúng ta đã tự do rồi, và chúng ta tự do với cả Trung Quốc. Không hề có chuyện đó. Cho dù họ bé đến đâu thì họ cũng không phải là đối tượng để thể hiện sự tự do của chúng ta. Trong không gian chính trị của các nước lớn, một kẻ nhỏ bé nhất cũng được kiểm soát. Và đôi lúc người ta tạo các điều kiện và các tình thế để Lào và Campuchia đi nhanh hơn người Việt, khôn hơn người Việt trước mắt thiên hạ.

Hỏi: Vậy theo chú những yếu tố nào tác động đến quan điểm ngoại giao của người Việt đối với những nước lớn hơn mình và đối với thế giới bên ngoài?

Trả lời: Chú không thấy có quy luật nào cả, chỉ có quy luật phổ biến toàn cầu, không phải quy luật cho người Việt, đó là nước bé thì luôn luôn sợ và ghét nước lớn. Cái bé sợ cái lớn hơn mình, tâm lý ấy phổ biến ở mọi nơi trên Thế giới. Người New Zealand không thích người Úc, mặc dù Úc cũng chỉ lớn New Zealand một cách tương đối chứ chưa phải là một cường quốc. Cháu hỏi cái gì là cơ sở cho sự định hướng tâm lý của người Việt, chú phải nói rằng không có cái đó. Người Việt có thói xấu giống mọi người trên thế giới và cũng có những ưu điểm giống mọi người trên thế giới. Tất nhiên những ưu khuyết điểm ấy có thể có chất lượng khác nhau, có vị ngọt bùi khác nhau, có những mùi hương khác nhau, đấy không phải là khác biệt triết học mà là khác biệt văn hóa.

Hỏi: Henry Kissinger có viết rằng bản chất của châu Âu là sự tan rã của hàng loạt quốc gia có sức mạnh tương đương nhau về mặt văn mình, về mặt quân sự cho nên nền ngoại giao hay tư tưởng dân chủ nó đã bám rễ ở châu Âu khá sớm. Còn đặc trưng của nền văn minh Trung Hoa ở một vị thế áp đảo hầu hết những nền văn minh xung quanh, cho nên tư tưởng xưng bá Trung Hoa rất là sớm, họ luôn tạo cho các nước xung quanh cảm giác họ đang tìm kiếm một sự thuần phục chứ không phải tìm kiếm đồng minh. Cháu nghĩ rằng cách mà Trung Quốc tương tác với Việt Nam cũng tạo ra tính cách riêng của người Việt?

Trả lời: Có lý. Nhưng đó là cái lý của Kissinger hay của cháu? Nếu nói về mặt thực dụng thì các suy luận ấy không có giá trị. Nó được xếp vào cái gọi là “Sự đố kị của các quốc gia”. Kissinger nói không hoàn toàn đúng. Cùng một kích thước thì không phải anh nào cũng phục anh nào. Tư tưởng dân chủ vẫn là lý tưởng của người Châu Âu chứ chưa phải là thuộc tính của họ. Không phải những người như Kissinger nói gì cũng đúng. Dân chủ và tự do luôn luôn là lý tưởng của mọi thời đại. Bởi vì kẻ bé, kẻ yếu luôn chiếm đa số. Kẻ chiếm đa số là kẻ đánh giá, sắp đặt chất lượng của lý tưởng tự do.

Người Trung Quốc không hiểu tự do như người châu Âu, họ hiểu tự do theo nghĩa khác. Người Trung Quốc chui vào bên trong mình để hưởng cái tự do. Đấy chính là cái tự do bên trong mà chú đã viết trong sách. Không ai tự do hơn Lý Bạch và Đỗ Phủ đối với trăng. Những người làm thơ chưa bao giờ đạt tới trạng thái tự do như vậy. Giống như Lý Bạch hay Đỗ Phủ, người Trung Quốc không có kinh nghiệm về tự do bên ngoài, tự do thể chế. Chính vì thế nên người Trung Quốc đi tìm tự do bên trong tâm hồn.

Hỏi: Nói như vậy thì có phải phương Tây cưỡi lên tự do mà không biết giá trị của nó.

Trả lời: Đúng thế. Phương tây hồn nhiên hưởng cái tự do như một của bắt được và bây giờ nó đang sụp đổ.

Hỏi: Theo chú thì châu Âu chưa phải là đối tượng dân chủ nhất, vậy thì con người ở đất nước nào có tự do và dân chủ nhất?

Trả lời: Con người cũng có một số tự do, nó khác nhau do văn hóa, do sự yêu thích của con người đối với các nội hàm của khái niệm ấy. Cho nên nếu cháu sa vào kết luận phương Tây tự do hơn thì cháu phạm một sai lầm là định kiến và hỏng về mặt chính trị. Người phương Tây dạy người Việt là phải đòi tự do thể chế hay thay đổi thể chế. Tại sao gia đình người ta đang yên lành, cha là cha và mẹ là mẹ, anh lại đi đòi tự do để cho tất cả bình đẳng với nhau. Liệu có bình đẳng thật được không và có thật là khi con người bình đẳng với nhau thì con người hạnh phúc không? Không phải!

Cháu là người có khả năng, cháu biết cưỡi con ngựa triết học để đi tìm và đạt đến một điều gì đó. Nhưng cần nhớ triết học chỉ là người bạn đường, lúc nào cháu cảm thấy trống rỗng thì ôm lấy nó một chút, rồi sau đó phải nói với nó rằng “mày hãy đi chỗ khác để tao làm việc”. Thái độ đúng đắn nhất đối với triết học là như thế. Khi nào mất trọng lượng, khi nào mất thăng bằng gặp nó một chút, ôm nó một chút, nhưng khi tỉnh ngộ rồi thì phải đuổi nó đi chỗ khác để mình làm việc.

Hỏi:Nghĩa là phải lên xuống liên tục ở ba tầng mà chú nói

Trả lời: Đúng vậy, Triết học là tầng cao nhất. Triết học làm cho con người trở nên gần với thần thánh hơn để nó bớt cái nhơ bẩn, để nó đỡ xấu đi. Ôm chầm lấy triết học là sai lầm nhưng vẫn phải có nó, không có nó cháu không bao giờ sạch sẽ được. Cháu phải tắm rửa bằng triết học để giữ cho mình sự thanh khiết của một con người. Cần phải có hiểu biết, cần phải học hành, cần phải có tư tưởng để trở thành một con người tân tiến, nhưng cũng phải biết xuống tầng trệt lập luận với cuộc sống, nhặt nhạnh, buôn bán, kiếm ăn để giữ lấy con người thực dụng. Con người không thực dụng thì không có gạo để trở thành con người có tư tưởng. Con người có tư tưởng mà không hướng thiện thì tư tưởng sẽ bị lợi dụng như một công cụ.

Hỏi: Đấy là người ta đi tìm kiếm tự do bên trong mình ở bên cạnh một thể chế?

Trả lời: Khoan hãy nói đến thể chế. Khi cháu đang nghĩ về trăng thì thể chế chẳng là gì cả. Có một nhà thơ rất lớn của người Trung Quốc tên là Khuất Nguyên. Có lần ông ấy đi tự tử vì chán đời quá. Một dân chài vớt được ông ấy lên và rất ngạc nhiên vì nhận ra đó là Khuất Nguyên. Người dân chài hỏi: “Tại sao ngài lại ra nông nổi này?”. Khuất nguyên nói rằng: “Đời đục mà ta trong, đời say mà ta tỉnh nên ta chán và đi tự vẫn”. Người dân chài đáp: “Đời đục mà ông trong, đời say mà ông tỉnh thì ông chết là đúng rồi. Đời đục thì ông ít đục, đời say thì ông ít say chứ ông không được tỉnh”. Đấy là một trong những câu chuyện dạy khôn của người Trung Hoa.

Ở tuổi cháu chưa thể từng trải về chuyện ấy được, bởi vì cháu đang đi ra giữa một cánh đồng mênh mông đẹp như một bài thơ của tự do. Chỉ khi nào đói bụng cháu mới thấy rằng ở chỗ đẹp như thơ ấy không có gì ăn được, phải chui vào bếp thì mới có cái để ăn. Chui vào bếp sau khi đã ở cánh đồng mênh mông đẹp đẽ của tự do rồi thì phải rất tự do mới làm được việc ấy. Trước đây nhiều trí thức cho rằng đi buôn là phe phẩy, là xấu. Tất cả các giáo sư đều thấy những kẻ phe phẩy ở Chợ Giời là rất xấu, thà đói còn hơn làm việc ấy. Lúc đó chú là một cán bộ ở Viện Khoa học Việt Nam, chú vứt tất cả những kinh nghiệm ấy vào sọt rác rồi đi buôn và chú sống được, nuôi được vợ được con, và gỡ lại sự thiệt thòi mà cuộc sống bắt mình phải chịu đựng khi bỏ triết học, bỏ sự lãng mạn để đi buôn bằng cách trở thành một nhà triết học. Chú bỗng nhiên phát hiện ra quy luật vĩ đại của tự do là nó giúp con người ra vào các chốn khác nhau trong đời sống tinh thần của mình một cách dễ dàng.

Những người như cháu chắc chắn được một điều là khó bị vấy bẩn. Chú chưa biết cháu đủ để đánh giá cháu thật tốt, thật xuất chúng hay không, nhưng không bị vấy bẩn một cách dễ dàng thì chắc chắn, vì con người biết nghĩ đến những chuyện ấy, biết thích những chuyện ấy là con người có chất lượng lý tưởng. Nếu như số phận có đẩy cháu đến chỗ phải ăn trộm thì cháu sẽ ăn trộm như một người có lý tưởng. Cháu cứ ngẫm đi rồi sẽ thấy. Cái xấu nhất của con người không phải là những việc xấu nó làm, mà là việc nó sẵn sàng ngủ chung giường với cái xấu, đấy mới là xấu nhất. Ấp ủ cái xấu mới là xấu nhất, còn việc con người buộc phải làm việc xấu thì đó là làm vì cuộc sống. Tất nhiên, nói như thế không phải là chú khuyến khích là cứ làm đại đi, nhưng cháu sẽ khó bị làm xấu.

Hỏi: Vậy ý chú là kẻ dễ bị làm xấu nhất là kẻ không có lý tưởng gì?

Trả lời: Kẻ không có tiêu chuẩn, không đủ điều kiện để hình thành hệ tiêu chuẩn của mình là kẻ dễ xấu nhất. Chú từng là một kỹ sư giỏi, chú đã vứt công việc ấy đi vì không chấp nhận phá vỡ tiêu chuẩn. Có lần chú tham gia nghiên cứu để làm một công trình rất lớn, được xem là công trình quốc gia. Mỗi lần chú đi vào trung tâm IBM ở Sài Gòn để tính toán đều có hai sĩ quan công an đi kèm, người ta bảo vệ chú thì ít mà bảo vệ cái cặp chú cầm thì nhiều. Một ông thứ trưởng kiểm tra kết quả của chú và hỏi tại sao chỗ này lại ít cọc thế. Chú trả lời là theo quy trình tính toán nó chỉ cần đến thế. Ông ấy bảo ít quá, phải tăng gấp đôi. Chú trả lời rằng hệ số phải nhân hai thì mới lên gấp đôi được, mà trong quy trình không có hệ số nào như vậy, thế thì tôi phải gọi hệ số ấy là gì. Sau khi trình bày xong mọi chuyện liên quan đến công trình ấy, chú lặng lẽ xin chuyển công tác. Tám năm sau chú lập nên công ty này khi đất nước mới mở cửa.

Có lý tưởng thì ít tầm thường nhưng chịu nhiều đau khổ. Rồi cháu sẽ có những sự day dứt mà những người vô cảm không cần phải có. Chính sự day dứt ấy tạo ra một thứ mà chú nói lúc nãy là khó hư hỏng. Còn người không day dứt thì việc gì cũng có thể làm.

Hỏi: Ý tưởng thành lập công ty của chú đến trước bao lâu?

Trả lời: Chú nghiên cứu về sự sụp đổ của liên bang Xô Viết từ năm 1968.

Hỏi: Tại sao trong đầu chú lại xuất hiện được ý tưởng là liên bang Xô Viết sẽ sụp đổ hay nó đến một cách ngẫu nhiên?

Trả lời: Nhiều người trên thế giới nghĩ như thế không phải chỉ một mình chú. Khi Liên Xô đánh nhau với Trung Quốc thì báo Le Figaro có một bức biếm họa mô tả Marx hiện lên trên bầu trời và nói “vô sản toàn thế giới hãy buông nhau ra”. Đấy là những gợi ý. Nếu không đọc tờ Le Figaro thì làm sao có được thông tin ấy để nghĩ. Chú cứ ngẫm nghĩ rồi dần dần trở thành người nghĩ chuyên nghiệp.

Hỏi: Thời điểm đấy thông tin để tiếp cận vào Việt Nam rất hiếm, có lẽ ý tưởng ấy xuất phát từ trong bản thân chú ?

Trả lời: Chú làm việc trong một viện khoa học, chú là chủ nhiệm một bộ môn của viện này nên có điều kiện để có thông tin. Trong giới trí thức nhiều người biết, chú không phải là kẻ biết đầu tiên nhưng chú là kẻ nghĩ chuyên nghiệp đầu tiên. Trong khi mọi người nói chuyện ấy như một chuyện chơi thì chú nghĩ về nó một cách nghiêm túc. Chú là người nghĩ chuyên nghiệp.

Hỏi: Vậy giả sử như nước CHND Trung Hoa sụp đổ thì liệu chú có phải là người nghĩ chuyên nghiệp đầu tiên ở Việt Nam về vấn đề ấy không?

Trả lời: Chú không nghĩ là nước CHND Trung Hoa sụp đổ. Đó là một trong các quốc gia vô cùng khó sụp đổ. Chú đã nghiên cứu rằng cứ khoảng 200 năm mới có một cuộc khởi nghĩa ở Trung Hoa, tức là mật độ của các cuộc cách mạng diễn ra thưa và nhân dân của nó ưa sự ổn định hơn là thay đổi. Nhà Hán hơn 400 năm mới có cuộc khởi nghĩa khăn vàng, cuộc khởi nghĩa khăn vàng là điểm mở đầu của tiểu thuyết Tam quốc chí. Những người viết văn chuyên nghiệp ở Trung Quốc chỉ để lại một vài tác phẩm nói đến các cuộc cách mạng, Thủy Hử là một cuộc cách mạng con con. Người Trung Quốc không phải là người sinh ra để làm cách mạng, bởi vì họ may mắn có một nhà triết học dạy con người yêu sự ổn định, đấy là Khổng Tử. Còn một nhà triết học khác vĩ đại không kém dạy con người thoát ra khỏi sự đau khổ vì bị nô dịch, đó là Lão Tử. Họ có cả thuốc độc lẫn thuốc giải trong cùng một dân tộc thì làm sao sụp đổ được.

Lý thuyết tự do của chú được kết hợp giữa thể chế của Khổng Tử và tự do của Lão Tử, nhưng chú diễn đạt bằng ngôn ngữ của phương Tây, bởi vì phương Tây có kinh nghiệm hơn trong việc đưa các khái niệm triết học về với đời sống. Cho nên các thành tựu có chất lượng viết lách của chú là kết hợp các khái niệm của phương Đông và phương Tây bằng ngôn ngữ phương Tây. Bởi chú xem ngôn ngữ là một lực lượng tham gia vào sự phát triển tiến bộ xã hội.

Hỏi: Vậy là chú yêu cả Khổng Tử và Lão Tử?

Trả lời: Cái gì mà cuộc sống có thì phải yêu nó chứ. Tại sao lại chỉ yêu một thứ và ghét những thứ khác?

Hỏi: Chú có nghĩ là Trung Hoa cổ đại, thậm chí là Trung Hoa cận đại nữa, người ta yêu Khổng Tử quá đến mức suy thoái không?

Trả lời: Thích một mình Khổng Tử thì cũng giống như ăn kẹo nhiều, sẽ bị đường huyết. Tất cả mọi thứ đều nằm trong hỗn hợp mà cuộc sống sử dụng để tự cân bằng. Cuộc sống là cân bằng, nếu không cân bằng thì không còn cuộc sống. Sở dĩ cuộc sống cân bằng vì trong nội hàm của nó có yếu tố tự cân bằng. Tự cân bằng là cấu trúc, còn cân bằng là biểu hiện ra bên ngoài. Tất cả các sự cân bằng đều là kết quả của sự cân bằng về mặt cấu trúc.

Chú khác các nhà triết học, chú là một hiện tượng tự cân bằng. Chú tự cân bằng được vì chú nghĩ đến con, đến vợ, đến các đồng nghiệp và không bao giờ lãng mạn đến mức quên các thực tế. Chú vừa giải xong bài toán lý tưởng là có thể chuyển xuống giải bài toán tư tưởng. Khi đã giải xong bài toán tư tưởng để thành ra quy trình hành động rồi thì chú nhảy xuống đời sống thực dụng chỉ huy một trận đánh kiếm tiền.

Chú là một người giàu có nhưng không trở thành đại gia. Chú mong cháu giàu lên và biết yêu sự giàu có, biết yêu vẻ đẹp trong sự giàu có. Chú khuyên cháu đừng bao giờ để mất cân bằng giữa trách nhiệm và tự do, cân bằng giữa vật chất và tinh thần. Kẻ nào luôn luôn tìm được điểm cân bằng giữa các cặp phạm trù đối xứng thì kẻ đó về bản chất là nhà triết học. Nhà triết học có nghĩ gì thì cuối cùng cũng phải tìm ra điểm cân bằng. Lão Tử có câu nói rất hay: “Theo tay ta chỉ sẽ thấy trăng, nghe lời ta nói sẽ thấy đạo. Nhưng tay ta không phải là trăng, lời ta không phải là đạo”. Câu của chú là ”Ta sẽ lấy những thứ ấy đặt trước mặt ngươi và bán cho ngươi”. Con người cần phải được bán cho những thứ như vậy với một giá hợp lý để nó có quyền tự do tiếp cận với cái đẹp, cả cái đẹp vật chất và cái đẹp lý tưởng.

Đã từng có rất nhiều giáo sư của Hội đồng lý luận, của Trường Đảng đến đây trao đổi với chú. Chú nói về nhiều vấn đề, về thể chế, về tự do dân chủ với quan điểm phi cách mạng.

Hỏi: Chú có một ý nói rằng những thiên tài thực sự không phải là những người tạo ra cuộc cách mạng mà là những người điều chỉnh cuộc cải cách sau cách mạng?

Trả lời: Tất cả các thiên tài đều là người lợi dụng các cuộc cách mạng để tổ chức ra nền chính trị của mình. Chú chưa thấy có cuộc cách mạng nào tạo ra cái gì đáng kể, kể cả cách mạng Pháp. Cách mạng Mỹ là cuộc cách mạng xảy ra một cách sớm hơn, một sự cướp cò của cách mạng Pháp, bởi vì sự giao lưu giữa các trí thức châu Âu và việc hình thành nước Mỹ gắn bó với nhau chặt chẽ. Chúng ta không có điều kiện để hiểu cấu trúc thật sự của các cuộc cách mạng ấy, mọi cái đều là phỏng đoán và nghe hóng hớt từ những tác giả phương Tây.

Khi nghiên cứu cấu trúc của một cuộc cách mạng thì chú biết rằng giới trí thức chỉ là người làm vỡ đê, còn sức mạnh tàn phá nằm ở dòng nước. Khi còn là sinh viên chú đã từng lên Phú Thọ tham gia vào việc phá đê để cứu Hà Nội. Chỉ cần một quả bộc phá nho nhỏ bằng cái bát là đê vỡ. Lúc đầu con đê chỉ mở ra khoảng hai ba mét, nhưng mười giây sau dòng nước ồ ạt xé toang con đê. Tất cả những người đứng ở đấy đều phải chạy đến mức thục mạng, thậm chí các viên tướng chỉ huy phải lên ô tô chạy. Vết mở của đê sau đó rộng khoảng một cây số, cát tràn vào vùi lấp đồng ruộng đến cả thước. Từ hiện tượng ấy, chú liên tưởng đến các cuộc cách mạng. Những người trí thức tạo ra một vụ nổ nho nhỏ làm điểm khởi đầu, còn dòng nước mới chính là yếu tố tạo ra sự tàn phá thật sự, dòng nước ấy chính là giai cấp vô sản. Chú có một kết luận khổng lồ là mọi cuộc cách mạng đều là cách mạng vô sản. Kẻ nào sử dụng được kết quả của cách mạng ấy thì tên cuộc cách mạng gắn với họ, còn người thực sự tạo ra cách mạng là giai cấp vô sản, là người nghèo khổ. Ở đâu có khoảng cách giàu nghèo thì ở đấy tiềm ẩn cách mạng vô sản, vì thế chúng ta phải luôn luôn cảnh giác để chuẩn bị đối phó với các cuộc cách mạng vô sản trên toàn thế giới. Do đó chú mới có lý thuyết về phi cách mạng hóa đời sống chính trị.

Hỏi: Theo chú, trong một cuộc cách mạng thì trí thức bị cuốn theo đám đông hay chỉ huy đám đông?

Trả lời: Trí thức chẳng chỉ huy bao giờ, tất cả mọi người đều tưởng nhầm. Trí thức là những kẻ láu tôm láu cá, ra vẻ chỉ huy thì có nhưng chỉ huy thật thì không. Trí thức không là gì cả. Chúng ta phải trở thành nhà chính trị thật sự, nhà lý thuyết thật sự chứ không phải là trí thức chung chung. Chúng ta phải chuyên nghiệp hóa tất cả các kiến thức của mình và các lực lượng của mình. Trí thức chỉ là những con ruồi láu cá giải thích các hiện tượng nổ mìn để mô tả công lao của mình. Nhiều người thậm chí không có gan để mô tả công lao của mình mà mô tả công lao của người mình định hầu hạ.

Hỏi: Giả sử như trước đây chú không thành lập công ty này, gia đình chú rất nghèo, chú phải chu cấp cho vợ, cho con liệu chú có làm như các trí thức ấy không?

Trả lời: Chú không thèm làm những việc như thế. Chú là người trong sạch, khi có thể làm tiền một cách chính đáng chú mới bắt đầu làm, còn khi không được làm một cách chính đáng thì chú không làm. Không có sự kiêu ngạo của một con người thì chúng ta sống bằng gì? Không có niềm tự hào và sức chịu đựng khó khăn, gian khổ của một thời đại thì chúng ta sống bằng gì. Con người có nhiều chỗ trốn tránh lắm. Thuở thanh niên trốn ra trận, ở nhà làm anh nuôi thì tha hồ được ăn cháy, không bao giờ bị đói. Con người đã hèn thì có nhiều chỗ, nhiều cơ hội để trở thành người hèn. Chú là người hát khá hay, luôn luôn là cây đơn ca của sư đoàn. Chú có thể trốn vào trong cơn mê hát của chú để tránh cuộc chiến đấu. Nhưng chú nghĩ không lẽ ta lại cậy có một giọng hát hay để từ chối những việc mà tất cả những người khác làm. Vấn đề là chú yêu bản thân mình, chú không thể trở thành người sống né tránh, sống hèn hạ. Đương nhiên chất lượng sống ấy cũng có những tác động một cách cực kì mạnh mẽ vào chất lượng viết.

Hỏi: Đến với chú như thế này là cả một sự can đảm của cháu.

Trả lời: Can đảm là một cách gọi, hồn nhiên là một cách gọi khác, may mắn là một cách gọi khác nữa. Rất nhiều người chú từ chối, không phải vì chú coi thường họ mà vì sức khỏe của chú là sức khỏe của một người già, giống như người có ít tiền nên phải biết tiết kiệm. Cháu thích như thế, cháu thể hiện như thế và chú nghe thú vị thì chú thử xem.

Chú khuyên cháu không được lãng phí thời gian. Cháu phải biết phân chia thời gian một cách cân đối. Làm việc thì phải có ý tưởng thật sự. Công việc không phải là chỗ ẩn nấp nhằm có được đồng lương tối thiểu để có thể yên tâm nghĩ ngợi. Đại bộ phận tư tưởng của cháu mà không bắt đầu từ công việc của cháu thì không có giá trị gì cả. Cháu nói cháu đã đọc chú , cháu sẽ thấy những gì chú nói không nằm ngoài những tư tưởng mà chú có. Cháu phải tìm kiếm sự nghiệp ngay trong chính công việc của mình. Cháu phải hợp nhất ý thích của mình, tình yêu của mình với sự nghiệp và với công việc. Như vậy cháu sẽ không lãng phí quỹ thời gian của mình. Kinh nghiệm của chú là khi nào chúng ta hiểu được con người thì chắc chắn sự nghiệp và công việc sẽ gắn với nhau.

Chú là người có năng khiếu làm thơ, viết văn, đóng kịch, ca hát. Chú có khả năng làm nhiều việc. Chú xử lý khả năng của mình như xử lý cây mít ở ngoài sân. Những quả nhỏ, những quả không có triển vọng thì bỏ bớt đi, để lại một vài quả để cho nó chóng lớn. Và chú đã có một số quả mít rất to để giành cho gia đình. Chú cũng có cả quả mít rất thơm để tạo ra tên tuổi. Đó là lời khuyên của chú đối với cháu. Tiết kiệm thời gian, dẹp bớt các khả năng phụ để tập trung vào thứ chính của cuộc đời mình, và cách tốt nhất để có sự nghiệp là kết hợp giữa ý thích của mình với công việc của mình.

LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Không gian tinh thần - Đối thoại

    09/01/2021Nguyễn Trần BạtKhi nghiên cứu về sự phát triển của con người, tôi đã rút ra kết luận rằng sự phát triển của con người lệ thuộc vào hai yếu tố: Yếu tố thứ nhất là hoàn cảnh khách quan, được thể hiện tập trung bằng thể chế và luật pháp. Yếu tố thứ hai là trạng thái tự do bên trong của mỗi con người...
  • Không gian tinh thần

    15/08/2017Nguyễn Trần BạtNgày nay chúng ta không thể chỉ bàn đến tự do như là quyền tự nhiên cổ xưa nữa, tự do hiện đại phải được khẳng định là các quyền chính trị, các quyền xã hội, các quyền văn hóa, các quyền kinh tế. Quyền con người bao giờ cũng được thể hiện trên cơ sở những khía cạnh như vậy. Không có kinh tế tự do, không được buôn bán làm ăn một cách tự do thì không có quyền tự do kinh tế. Không có các quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do cư trú thì con người không có các quyền tự do xã hội.
  • Hạnh phúc

    21/03/2017Nguyễn Trần BạtCon người ở bất kỳ thời đại nào đều có chung một mục đích là theo đuổi cuộc sống hạnh phúc, công cụ mà loài người đã sử dụng để tìm kiếm hạnh phúc là các quyền chính trị...
  • Ông Nguyễn Trần Bạt trả lời báo đài Phần Lan

    04/05/2015Annastina AbondeNăm nay Việt Nam kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Nhân dịp này chúng tôi thực hiện một phóng sự tìm hiểu về những gì Việt Nam đã làm được sau 40 năm...
  • Ông Nguyễn Trần Bạt đối thoại với sinh viên Học viện Ngoại giao

    04/03/2015Ông Nguyễn Trần Bạt khác với nhiều người mà tôi đã tiếp xúc. Ông không chỉ là người có khả năng truyền đạt thông tin, truyền đạt tri thức đến người nghe ở mức chất lượng, ở sự tổng hợp cao nhất...
  • Ông Nguyễn Trần Bạt trò chuyện với Thomas Friedman

    05/09/2014...Trong tất cả các yếu tố cần phải chăm sóc để phát triển ở Việt Nam thì yếu tố đạo đức vẫn là một yếu tố buộc phải chú ý tới. Chúng ta muốn có một thế giới mà con người vẫn còn tử tế, hay nói cách khác là nó vẫn còn giữ nguyên các tiêu chuẩn cơ bản của con người thì chúng ta buộc phải chăm sóc đạo đức...
  • Cuộc trò chuyện giữa ông Ngô Bảo Châu và ông Nguyễn Trần Bạt

    13/06/2014Đây là bài cuối của loạt bài phỏng vấn, đối thoại thực hiện vào cuối năm 2010 của hòa thượng Thích Học Toán đăng trên Blog cá nhân...
  • Biện chứng của quá khứ

    20/05/2014Nguyễn Trần BạtHiện tượng bị quá khứ hấp dẫn là hiện tượng phổ biến trong đời sống nhân loại, trên tất cả các phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội. Các dân tộc đều khó chia tay với quá khứ và dân tộc nào cũng có những dấu hiệu đặc trưng cho quá khứ của mình. Tại sao quá khứ lại hấp dẫn và quan trọng đối với loài người như vậy? Sự hấp dẫn của quá khứ là do chính nó hay do con người bất lực và chỉ biết kéo lê quá khứ của mình đến tương lai?
  • Chuyên gia Nguyễn Trần Bạt: Xác định lại trách nhiệm từng cấu phần gói 30.000 tỉ

    23/03/2014Thảo Nguyễn (Thế giới Tiếp thị)Để gói hỗ trợ 30.000 tỉ đồng phát huy hiệu quả, chuyên gia kinh tế Nguyễn Trần Bạt, cho rằng, cần phải xác định rõ ràng trách nhiệm, yêu cầu đối với ngành xây dựng, ngân hàng, doanh nghiệp và người mua nhà...
  • Tản mạn đầu năm với Nguyễn Trần Bạt

    13/02/2014Định bụng hỏi một vấn đề “nóng” nhưng chuyên gia Nguyễn Trần Bạt bảo chưa nên bàn vào lúc này, vậy nên, câu chuyện giữa chúng tôi ngẫu nhiên lái sang một vài sự kiện đã qua nhưng dưới góc nhìn của ông thì không cũ...
  • Giao lưu giữa ông Nguyễn Trần Bạt với các nhà lãnh đạo và doanh nhân Nghệ An (phần 2)

    20/08/2010Tôi đã viết một chương dành riêng để luận giải mối quan hệ biện chứng giữa khái niệm cá nhân, khái niệm tôi và khái niệm chúng ta trong quyển sách "Cội nguồn cảm hứng"tôi có mang theo để tặng các anh, các chị ở đây. Đây là một vấn đề khoa học, không phải là vấn đề quan niệm, tôi không đề cao bất kỳ cái gì cả. Khoa học không đề cao, khoa học nói rõ sự thật, khoa học cố gắng mô tả sự thật. Có thể cơ quan tuyên huấn thì cần phải đề cao cái này hoặc cái kia, nhưng khoa học thì không đề cao cái gì cả....
  • Giao lưu giữa ông Nguyễn Trần Bạt với các nhà lãnh đạo và doanh nhân Nghệ An (phần 1)

    18/08/2010Có lẽ cái anh Bạt muốn truyền đạt lại với chúng ta không chỉ cho các doanh nhân, không phải chỉ các cán bộ mà tôi nghĩ rằng cho cả chúng tôi và các nhà lãnh đạo cao hơn chúng tôi . Các nhà lãnh đạo cần lắng nghe ý kiến của các chuyên gia, đặc biệt có những ý tưởng, có những suy nghĩ mà tôi nghĩ rằng nó vượt lên trước chúng tôi, vượt lên trước những người bình thường. Có những suy nghĩ mà chúng tôi không nghĩ tới, kể cả những người có nhiều kinh nghiệm, nhiều kiến thức, nhiều học vị nhưng có những cái không nghĩ tới được. Qua những bài viết qua nhiều năm của anh Bạt và những hoạt động của công ty thì chúng tôi hiểu ra điều đó...
  • Cội nguồn cảm hứng

    17/06/2009Bùi Quang MinhĐến nay, còn rất nhiều người chưa đạt tới trình độ nhận thức rằng tự do là nền móng để họ trở thành Con Người, là trình độ làm người ở mức cao nhất. Do truyền thống, do mức muộn mằn tiếp cận khái niệm tự do, do tư duy ấu trĩ chưa được tự do soi rọi vào cuộc đời mình, mà số đông chúng ta không tự trau dồi về tự do, không phát hiện ra hiện tượng nào quanh ta tự do không được coi trọng, thiếu tự do. Cũng không thiếu người bị chà đạp lên tự do, mất quyền cơ bản của mình mà không mảy may nhận ra, phản ứng lại...
  • xem toàn bộ