Giáo sư Nguyễn Hồng Phong (1929 - 1998), Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ - là chuyên gia hàng đầu trong nghiên cứu về phát triển. Sau khi Giáo sư qua đời, các công trình trong Di cảo của ông: "Văn hoá chínhtrị Việt Nam- truyền thông và hiệnđại"; "Mộtsố vấnđề về hình thái kinh tế- xã hội Văn hóa và phát triển",đã được công bố. Tạp chí Xã hội học trân trọng giới thiệu với bạn đọc bài nghiên cứu của Giáo sư: ViệtNamđổimới và phát triển,trong công trình:"Nguyễn Hồng Phong- mộtsố côngtrình nghiên cứuKhoa học xã hội và Nhân văn",sắp ra mắt bạn đọc. Bài này được tác giả hoàn thành năm 1995 (TCXHH).
Nếu ở thời điểm của năm 50 và với một ông Marcel Granet nhà sử học đồng thời là nhà Đông pương học Pháp thì kết thúc một tác phẩm sẽ là một tổng kết lịch sử để có thể rút ra những bài học cho hiện tại. Từ đó người đọc sẽ suy ra viễn cảnh. Nhưng chúng ta đang ở một thời điểm khác, thuộc về một giai đoạn khác của lịch sử. Thời kỳ đầu của một nền văn minh mới, văn minh hậu công nghiệp. Chúng ta đang ở những thập niên bản lề của cuộc chuyển biến vĩ đại này. Đây là một thời kỳ nở rộ những dự báo khoa học với các tên tuổi và các công trình nổi bật của Daniel Ben, Alvin Toffler, John Naisbitt, Thierry Gaudin. Những công trình tương lai học nổi tiếng trên đây đều dự báo tương laitrên cơ sở phân tích xã hội hiện tại của những nước phát triển nhất. Phát hiện các hiện tượng và sự kiện mới có ý nghĩa, nhận dạng nó, đặt nó trong các dòng mạch của lịch sử, và trong các khuynh hướng phát triển. Tóm lại, là nhận thức tương lai qua những mầm mống dạng nảy sinh trong xã hội hiện tại. Các công trình dự báo tương lai đều là những công trình xã hội học và sử học về xã hội đương đại, phân tích các "sự kiện còn đang nhảy múa" theo cách nói của Marx, tóm bắt nó, gọi nó đúng với cái tên của nó, từ đó nhận thức sự biến chuyển.
Học tập phương pháp của các nhà tương lai học, trong công trình này chúng tôi trình bày viễn cảnh của văn minh Việt Nam bằng sự phân tích công cuộc đổi mới có tính lịch sử ở nước Việt Nam hôm nay. Đây là một cuộc cách mạng đích thực tạo ra sự biến đổi sâu xa một cuộc chuyển hướng vĩ đại đưa nước ViệtNam nhập vào trào lưu tiên tiến của thế giới tạo cơ sở và điều kiện cho ViệtNam bước vào thế kỷ XXI. Năm 1975 với ViệtNam có ý nghĩa như là năm kết thúc một giai đoạn lịch sử và mở đầu cho một thời kỳ mới. Chính là từ Đại hội Đảng cộng sản ViệtNam lần thứ VI phát động cuộc đổi mới mà chúng ta nhận thức lại ý nghĩa của năm 1975. Sau hai cuộc kháng chiến lâu dài, oanh liệt nhưng cũng rất khốc liệt và gian khổ, hoà bình thống nhất độc lập đã được xác lập vững chắc trên đất nước ViệtNam. Không bị giam lâu vào "niềm say thắng lợi" những người cộng sản ViệtNam đã bắt đầu nói đến hậu quả của chiến tranh và việc hàn gắn những vết thương chiến tranh. Nhưng người Việt Nam ngày càng nói nhiều đến tình trạng tụt hậu, ở đây là khoảng cách so với các nước trong khu vực, những nước mà trước kia là thuộc địa, cùng ở một trình độ phát triển với Việt Nam như Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc, Malaixia. Người ViệtNam sau 10 năm giải phóng bắt đầu quan tâm đến phát triển kinh tế, nói nhiều đến nỗi nhạc của sự nghèo nàn lạc hậu thay cho sự say sưa nói về những chiến công. Không phải như vậy là người ta dễ đàng phủ nhận truyền thống vẻ vang của dân tộc. Mà chính là từ lòng tự hào về một đất nước đã từng là lá cờ đầu trong phong trào giải phóng dân tộc, tạo nên những chiến công huyền thoại, gây niềm thán phục cho các nước châu á, châu Phi và Mỹ La tinh, nay bỗng rơi vào tình trạng một nước kém phát triển, tụt hậu, thua kém các nước trong khu vực mà trước năm 45 cùng một trình độ như Việt Nam. Những người lãnh đạo ở ViệtNam còn ý thức được rằng sự tụt hậu kinh tế sẽ dẫn tới những hậu quả xấu về chính trị. Chính là do mở cửa về kinh tế, quan hệ với tất cả các nước mà nền kinh tế thị trường và cuộc cách mạng thông tin đã tác động mạnh mẽ vào ViệtNam như là nó đã tác động vào các nước XHCN Đông Âu. Người tạ có thể nhận thấy tác động và phản tác động của hai vùng này là khác nhau. Nếu ở Châu Âu tác động của nền kinh tế thị trường và cuộc cách mạng thông tin đã làm cho các chế độ XHCN theo mô hình xô viết tan rã hàng loạt, thì ở Việt Nam cũng như Trung Quốc người ta đã tiếp thu tác động này để năng động hoá chính sự tồn tại của mình, không đập vỡ hệ thống xã hội. Những người lãnh đạo Đảng Cộng sản ViệtNam có truyền thống gắn bó với nhân dân qua hai cuộc kháng chiến, họ rất hiểu nguyện vọng sâu xa của nhân dânhôm nay. Họ cũng hiểu rằng nếu sự thua kém về kinh tế kẻo đài sẽ làm giảm niềm tin vào chế độ, vào Đảng và Nhà nước, có tác dụng xấu đến ổn định xã hội. Cách mạng và kháng chiến đã thực hiện một nền dân chủ đích thực, dân chủ thời chiến. Người dân thực sự có ý thức làm chủ. Chính nền dân chủ đã tạo nên các chiến công anh hùng chống ngoại xâm. Bây giờ đi vào phát triển kinh tế phải làm sao nhát huy được tính năng động của người dân, đó là bí quyết tạo nên cuộc biến chuyển về kinh tế xã hội.
Con người không thích thay đổi, nó chỉ chấp nhận đổi thay khi bị bức bách, và nó chỉ thấy bức bách là trong khủng hoảng. Đấy là hoàn cảnh mà công cuộc đổi mới ViệtNam đã được khởi xướng. Và chỉ trong khoảng 10 năm bắt đầu từ Đại hội VI, Việt Nam đã khẳng định được uy tín của mình trên trường quốc tế với tư cách là một nước xã hội chủ nghĩa tiến hành cuộc đổi mới nhanh nhất và hiệu quả nhất. Cuộc cải cách kinh tế nhắm thẳng vào hai trụ cột của mô hình XHCN xô viết là chế độ sở hữu công cộng và nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Lý luận kinh điển về mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã tạo nên tình thế cách mạng của Marx đến nay vẫn còn nguyên giá trị của nó, lý luận này đã được các sự kiện của thực tế chứng minh. Chính sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và sự tan rã của Liên Xô có thể soi sáng lý luận của Mác. Mac cho rằng khi các quan hệ xã hội trong sản xuất (nó là bản chất của quyền sở hữu và quyền kiểm soát trong sản xuất) kìm hãm lực lượng sản xuất, tức là kìm hãm sự phát triển của tư liệu sản xuất nghĩa là kìm hãm tiến bộ công nghệ thì sẽ xuất hiện tình thế cách mạng. Chính là các quan hệ xã hội của chế độ xã hội ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu đã không thể phát huy được những lợi thế của hệ thống mới tạo ra của cải dựa trên máy tính điện tử, viễn thông, tức là dựa vào thông tin mở. ỞViệtNam và Trung Quốc, nơi chế độ sở hữu nhà nước và tập thể có quy mô toàn quốc, nhưng sức sản xuất lại ở trình độ phát triển thấp, còn đang trong làn sóng thứ nhất chuyển sang làn sóng thứ hai. ở ViệtNam, công nghiệp, cơ khí chỉ mới chiếm 30%, 70% còn lại vẫn là thủ công. ở đây không có mâu thuẫn giữa chế độ sở hữu với trình độ tư liệu sản xuất. Nếu sự đụng độ của làn sóng thứ ba với làn sóng thứ hai đã tạo nên sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa xô viết, thì ở Việt Nam không có một sự đụng độ như vậy ở đây chỉ có sự đụng độ của làn sóng thứ hai biểu hiện ở công nghiệp hoá và sự phổ cập của nền kinh tế thị trường mâu thuẫn với chế độ sở hữu Nhà nước và sự quản lý kiểm soát tập trung, chế độ này củng cố nền kinh tế tự cấp, tự túc đóng kín giữa các địa phương và đóng kín với bên ngoài. Nó ngăn cản nền kinh tế thị trường đang hình thành với yêu cầu đa dạng hoá các hình thức sở hữu để năng động hoá nền kinh tế. Cuộc cải cách nhằm đa dạng hoá chế độ sở hữu tư liệu sản xuất. Theo quá trình phát triển lịch sử tự nhiên, nền kinh tế ViệtNam đầu thế kỷ XX đã là một cấu trúc nhiều thành phần: sở hữu nhỏ của nông dân và thợ thủ công, sở hữu lớn của địa chủ, tư sản và sở hữu nhà nước thực dân. Cải cách ruộng đất đã xoá bỏ sở hữu địa chủ. Những năm 60, trong cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã xoá bỏ tư hữu tư nhân và thu hẹp sở hữưcá thể. Bây giờ trong cuộc cải cách kinh tế đã khôi phục lại nền kinh tế nhiều thành phần của giai đoạn trước những năm 60. Trước đây hộ gia đình là đơn vị cơ sở của sản xuất nông nghiệp. Sau cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp hợp tác xã lờ đơn vị hành chính cơ bản cả nông thôn. Tổ chức hợp tác không đơn giản là một thể chế nhập từ bên ngoài, mà trong thực tế nó như là một hình thức chuyển giao hiện đại từ hình thái làng cổ truyền của xã hội ViệtNam. Cuộc cải cách kinh tế không nhằm vào thu hẹp hợp tác xã mà nhằm mở rồi cho kinh tế hộ gia đình phát triển. Hợp tác xã vẫn tồn tại nhưng có nhiều biến đổi Tính tự nguyện và tính tự quản là nguyên lý tổ chức và vận hành của mọi hợp tác xã. Đối với kinh tế hộ của xã viên, hợp tác xã sẽ hỗ trợ mà không ngoại trừ. Một số hợp tác xã cũ chuyển sang phương thức hoạt động mới, đồng thời cũng xuất hiện nhiều hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp, thủ công nghiệp và tín dụng... Việc giao quyền sử đụng đất đã phát huy tác đụng của đất đai, bảo đảm cho hộ nông dân vai trò đơn vị kinh tế tự chủ, thúc đẩy các hình thức hợp tác kiểu mới. Hợp tác xã và hộ gia đình như là các thiết chế quản lý tài nguyên ở cấp địa phương. Sau kinh tế hộ gia đình các doanh nghiệp tư nhân cũng được phát triển. Đại hội VI cho phép tư sản nhỏ được kinh doanh trong một số ngành sản xuất và dịch vụ. Đại hội VI mở rộng thêm không gian phát triển cho tư bản tư nhân: "tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngàn nghề mà luật pháp không cấm".
Như vậy, thông qua hai kỳ Đại hội VI, VII, quan điểm về một nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã được khẳng định. Một quan điểm mấu chất của việc định hướng XHCN trong kinh tế nhiều thành phần là giải quyết mối quan hệ giữa sở hữu toàn dân, kinh tế Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Những người cộng sản vẫn kiên trì quan điểm của Mac, coi chế độ công hữu như là đặc trưng cơ bản của chế độ XHCN. Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản, Mac viết: “những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành công thức duy nhất là xoá bỏ chế độ tư hữu”. Rõ ràng là ở thế kỷ XIX của văn minh công nghiệp, Mac chỉ có thể nói về tầm quan trọng của sở hữu tư liệu sản xuất. Ngày nay chúng ta đang ở thời đại của văn minh hậu công nghiệp, vấn đề sở hữu trí tuệ trở thành quan trọng khi con người trở thành nhân tố quyết định của sự phát triển. Nếu trong văn minh công nghiệp sở hữu tư liệu sản xuất là quan trọng nhất thì trong văn minh hậu công nghiệp sở hữu trí tuệ là quan trọng nhất. Nếu đất đai, lao động, nguyên liệu, vốn là nhân tố chủ yếu trong sản xuất của nền kinh tế công nghiệp thì đến nay tri thức bao gồm dữ kiện, thông tin, hình ảnh, văn hoá, hệ tư tưởng và giá trị chính là nguồn lực trung tâm của nền kinh tế hậu công nghiệp. Đất đai, lao động nguyên liệu và vốn là các nguồn lực hữu hạn, còn tri thức xét về mọi phương diện là một nguồn lực vô hạn không thể khai thác cạn kiệt được. Hoa Kỳ là một nước sản xuất lương thực hàng đầu trên thế giới nhưng chỉ huy động 2% tổng số nhân lực làm nông nghiệp. Từ một thế kỷ nay nông nghiệp càng giảm nhân lực thì Hoa Kỳ càng trở thành cường quốc mạnh về nông nghiệp. Trong thập kỷ tới, Hoa Kỳ dự kiến có thể tạo thêm 10.000 việc làm mỗi ngày nhưng riêng trong khu vực công nghiệp chế biến, mức tăng việc làm sẽ không có nữa. Hiện nay tổng mức xuất khẩu thế giới về dịch vụ và "sở hữu trí tuệ" đã xấp xỉ bằng tổng mức xuất khẩu về điện tử và Ô tô cộng lại, hoặc tổng mức xuất khẩu về lương thực thực phẩm và nhiên liệu cộng lại. Tóm lại nhân loại đang chuyển sang nền kinh tế kiến thức do đó quyền sở hữu trí tuệ là quan trọng nhất. Đối với sở hữu tư liệu sản xuất, vì dù sao Việt Nam vẫn còn đang ở trong văn minh công nghiệp thì kinh nghiệm còn nóng hổi của thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp là sự kém năng động của nền kinh tế khì chế độ sở hữu nhà nước và tập thể bao trùm toàn bộ không gian kinh tế. Chủ nghĩa xã hội xác định tài sản thuộc sở hữu toàn dân bao gồm tài nguyên của quốc gia, tài sản và vốn Nhà nước đầu tư trong nền kinh tế quốc dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa đại diện cho nhân dân thực hiện quyền của người chủ sở hữu. Trước đây có một sự đồng nhất giữa sở hữu toàn dân với kinh tế quốc doanh. Nghĩa là chỉ kinh tế quốc doanh mới đại diện cho sổ hữu toàn dân và được sử dụng tài sản quốc gia. Nay xác định lại: sở hữu toàn dân được sử dụng trong tất cả các thành phần kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường thì kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo như thế nào? Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế không chỉ đóng khung vào các doanh nghiệp, Nhà nước phải huy động sức mạnh của toàn bộ nền kinh tế Nhà nước, dự trữ quốc gia, vốn và tài sản nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Khái niệm CNTB Nhà nước được nhắc lại nhiều lần trong cuộc cải cách kinh tế. Những người cộng sản ViệtNam đã lấy lại quan điểm này của Lê nin và áp dụng vào thực tế như một giải pháp phát triển kinh tế để đi lên CNXH. CNTB Nhà nước có mối quan hệ liên kết và kết hợp giữa nhà nước và kinh tế tư nhân trong nước và ngoài nước (từ hình thức thấp là doanh nghiệp tư nhân làm đại lý, gia công, hợp tác với doanh nghiệp nhà nước; hình thức cao là liên doanh góp cổ phần giữa tư nhân và Nhà nước). Những xí nghiệp liên doanh giữa.nhà nước và tư nhân nếu Nhà nước nắm phần khống chế thì thuộc loại doanh nghiệp nhà nước, còn nếu phần tư nhân góp vốn lớn hơn thì thuộc loại chủ nghĩa tư bản nhà nước. Nhà nước đã tạo ra những điều kiện cơ bản để tạo lập và hoàn thiện cho cơ chế thị trường hoạt động thông suất, phát huy tác dụng tích cực, đặc biệt là trong việc phân bố và sử dụng các nguồn lực của toàn xã hội kể cả nguồn lực thu hút từ bên ngoài cho mục đích tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao. Làm cho thị trường hình thành đồng bộ bao gồm thị trường sản phẩm và dịch vụ, đặc biệt là thị trường vốn mà hình thức cao là thị trường chứng khoán, thị trường sức lao động, thị trường bất động sản, thị trường công nghệ.
Mọi doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp Nhà nước đều bình đẳng trước phápluật trong môi trường cạnh tranh có điều chỉnh, hạn chế độc quyền. Giá cả, tỷ giá hối đoái, lãi suất tín dụng do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định. Nhà nước dùng biện pháp kinh tế tác động đến cung cầu kể cả quan hệ tổng thể tiền hàng - để kiểm soát lạm phát, ổn định mặt bằng giá. Nhà nước chỉ trực tiếp can thiệp vào giá của một số hàng hoá và dịch vụ mang tính độc quyền hoặc hết sức thiết yếu, bảo hiểm một số giá nông sản, hàng xuất khẩu, song vẫn không thoát ly cơ sở kinh tế thị trường. Nhà nước dùng biện pháp kinh tế để ổn định tỷ giá hối đoái hợp lý, tạo điều kiện chuyển đổi tự do giữa đồng tiền ViệtNam và ngoại tệ (hoạt động theo nguyên tắc lãi xuất tiền vay cao hơn tiền gửi, lãi suất tiền gửi cao hơn tốc độ lạm phát). Tạo điều kiện cho cơ chế thị trường hoạt động. Những người lãnh đạo Đảng,Nhà nước cũng quan tâm đến hậu quả tiêu cực của kinh tê' thị trường cần ức chế và ngăn chặn. Dù là kinh tế thị trường chỉ là mới hình thành những mặt trái của nó đã thể hiện ở khắp nơi. Đó là tình trạng hoạt động không lành mạnh của các đơn vị kinh doanh chạy theo lợi ích riêng mù quáng, vì mưu cầu lợi nhuận trước mắt, làm những vi trái với pháp luật, gây mất cân đối, mất trật tự trong nền kinh tế. Cạnh tranh tạo ra lợi nhuận siêu ngạch dẫn tới phá sản, thất nghiệp, là tăng sự phân cực giàu nghèo và phát triển không đều giữa các vùng gây bất công xã hội. Tâm lý trọng đồng tiền và lợi ích vật chất làm xói mòn đạo đức, gây ra và là trầm trọng thêm các tệ nạn xã hội. Cơ chế cũ dẫn tới trì trệ và khủng hoảng về kinh tế xã hội, kinh tế thị trường làm cho kinh tế năng động và có hiệu quả song cũng có mặt trái của nó. Vấn đề vẫn phải tiếp tục đổi mới cơ chế kinh tế tạo môi trường cho thị trường hoạt động đồng thời có những giải pháp ngăn chặn hạn chế các biểu hiện và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Thị trường lành mạnh không ra đời một cách tự phát. Nhà nước phải là bà đã và nuôi đậy thị trường. Quan điểm kinh tê mở, là một tư tưởng quan trọng trong cải cách kinh tế. Khái niệm kinh tế mở được sử dụng lần đầu tiên trong nghị quyết Hội nghị TW khoá VII ( tháng 6/1992). Nó chứa đựng nội hàm đầy đủ hơn kháih niệm "mở cửa". Kinh tế mở không chỉ là mở cửa với bên ngoài mà còn là thông suốt thị trường trong nước, xoá bỏ mọi sự ngăn cách, chia cắt "cấm chợ ngăn sông". Công nghiệp hoá và phát triển kinh tế trước đây là theo mô hình "kinh tế đóng", thể hiện xu hướng tự cấp, tự túc, khép kín, thay thế nhập khẩu. Thực chất "hướng về xuất khẩu” là đặt sản phẩm trong nước - hàng hoá và dịch vụ trong quan hệ so sánh với tiêu chuẩn quốc tế, để cạnh tranh được với hàng ngoại trên trường quốc tế và thị trường nội địa. Còn thay thế nhập khẩu được quan niệm như Ià so sánh lợi thế. Sản phẩm nào xét điều kiện trong hiện tại và tương lai, không có sức cạnh tranh với hàng nước ngoài thì nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu trong nước có lợi hơn là tự sản xuất. Tóm lại, Nhà nước có vai trò to lớn trong việc tạo điều kiện cho thị trường hình thành và hoạt động, tạo môi trường hành lang cho sản xuất và kinh doanh: Môi trường hành lang pháp chế và môi trường kinh tế vĩ mô ổn định. Xây dựng và nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế. Bảo vệ môi trường sinh thái. Hướng dẫn và hỗ trợ sự phát triển của các thành phần kinh tế. Bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội. Quản lý và kiểm soát tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Như vậy có thể kết luận nội dung cơ bản của cuộc đổi mới kinh tế của ViệtNam là đổi mới căn bản về tư duy phát triển:
1. Từ chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đã chuyển sang chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, tức là một nền kinh tế hỗn hợp các hình thức sở hữu, các loại hình kinh tế đa dạng. Từ kinh tế đơn thành phần thành nền kinh tế đa thành phần.
2. Từ cơ chế chỉ huy do Nhà nước điều khiển trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính, gắn hến với chế độ bao cấp, chuyển sang kinh tế thị trường, với tác động của quy luật cung cầu, cạnh tranh và lợi nhuận. Nghĩa là từ chế độ quan liêu tập trung bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường.
3. Từ cơ cấu kinh tế mang nặng tính chất tự cấp tự túc khép kín và chia cắt chuyển sang hệ thống kinh tế mở trong cả nước với nước ngoài.Đó là quá trình hình thành nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở ViệtNam.
Như vậy là Nhà nước sẽ suy yếu trong nền văn minh hậu công nghiệp vào thế kỷ XXI. Còn trong các nước Thế giới thứ Ba đang công nghiệp hoá thì Nhà nước không những không có dấu hiệu suy vong mà đang là một nhà nước đầy tiềm năng, đóng vai trò nổi bật và là tác nhân chủ yếu đẩy mạnh cải cách và phát triển. Nhà nước Ià tác nhân chủ yếu của quá trình công nghiệp hoá, của việc đa dạng hoá xã hội, của sự cải tạo nông nghiệp và sự chống lại sự lệ thuộc kinh tế. Về mặt lý thuyết Marx đã từng nói về tính độc lập của nhà.nước đối với cơ sở kinh tế trong khi phân tích trường hợp nước Đức đầu thế kỷ XIX. ở Đức, theo Mac, cho đến đầu thế kỷ XIX sự quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản đã không hoàn thành như ở Anh, Pháp. Tuy nhiên một nhà nước hiện đại vẫn có thể xuất hiện ở đó như là độc lập đối với xã hội. Trong xã hội này, trật tự xã hội tiền tư bản vẫn chưa phát triển thành các giai cấp xã hội hiện đại (hệ tư tưởng Đức). Sự độc lập của Nhà nước ở chỗ nó chưa có giai cấp hiện đại mà lại dựa vào sự tồn tại của cơ cấu quyền lực tiền tư bản. Trong sự tác động của nhà nước vào kinh tế có ít nhất 3 trào lưu kinh tế học:
Trào lưu thứ nhất coi mục đích hoạt động của nhà nước là tổ chức ra một hệ thống kinh tế, làm chủ được tất cả các biến số kinh tế, hay ít nhất cũng là như biến số kinh tế chủ yếu bằng kế hoạch mệnh lệnh, định mức (plan imperatif, normatif). Chế độ sở hữu nhà nước về các tư liệu sản xuất đảm bảo cho việc thực hiện kế hoạch. Đây là nhà nước ViệtNam và các nước xã hội chủ nghĩa theo mô hình xô viết.
Trào lưu thứ hai cho rằng hoạt động của Nhà nước là tổ chức ra một nềnkinh tế hỗn hợp, với một kế hoạch định hướng (plan indicatif). Nhà nước nắm các chức năng quan trọng của một bộ máy sản xuất và quyết định phương hướng cho toàn bộ sự hoạt động kinh tế. Theo trào lưu này kế hoạch là quan trọng, song đó không phải là kế hoạch độc đoán mệnh lệnh, kế hoạch này cũng không hoàn toàn dựa vào kết quả của kinh tế thị trường. Nó yêu cầu Nhà nước phải lập ra những cực phát triển (poles de développment) đó là các tam giác phát triển đang được thiết lập ở nước ta. Francois Perroux nhà kinh tế học Pháp tiêu biểu cho trào lưu này nói “Nhà nước tung ra các năng lượng mới và kiểm soát việc áp đụng và hiệu quả của việc kiểm soát, nhà nước thực hành các chính sách phát triển khu vực và tạo lập ra lãnh thổ riêng của nó". Sự thống trị của Nhà nước là dựa vào: tăng thuế khoá, tổ chức trọng tài kinh tế, tổ chức ra một khu vực công cộng có khả năng ảnh hưởng không thể đảo ngược đến khu vực kinh tế tư nhân. ViệtNam sau cải cách kinh tế đang đi theo trào lưu này.
Trào lưu thứ ba cho rằng nhà nước tồn tại trong giai đoạn ban đầu để xây dựng các điều kiện cho phép nền kinh tế dựa vào thị trường hoạt động. Sau khi đạt tới giai đoạn đó nhà nước chuyển sang các chức năng của nó cho các trung tự quyết định tư nhân. Đó là loại nhà nước rơ te (Etat-relais). Có thể thấy loại nhà nước relais này không hề xuất hiện ở các nước đang phát triển đi vào công nghiệp hoá. Ngay cả các nước con Rồng Châu Á, nhiều lắm nơi ta cũng chỉ thấy nó theo trào lưu thứ hai và có kết hợp phần nào với trào lưu thứ ba. Thực tế cho thấy nhà nước càng can thiệp vào quá trình phát triển kinh tế về chính trị nhà nước càng dễ trở thành chuyên chế. Người ta đã tổng kết sự phát triển của Mỹ La tinh, rằng sau khi các tập đoàn cá mập rời khỏi quyền lực chính trị thì không phải là giai cấp tư sản mới hay các giai cấp trong nhân dân lao động mà Nhà nước nắm lấy quyền lực. Ngay sự hình thành các tập đoàn xã hội mà người gọi giai cấp ở đây cũng không phải là do phân hoá xã hội từ bên dưới mà lại do chỉ định từ bên trên mà nhà nước là cơ sở của chỉ định này. Giai cấp tư sản của Thế giới thứ ba phát sinh từ hành động của nhà nước và từ các quá trình chỉ định, không hoạt động như một giai cấp sản xuất xã hội mà ngay khi nó gắn liền với Nhà nước nó vẫn hoạt động như một đẳng cấp những người thực lợi từ các nguồn thu nhập của Nhà nước. Giai cấp này không xác định bằng việc theo đuổi các lợi nhuận như phương Tây mà bằng chính sách tối đa hoá các khoản trợ cấp (tô, thuế). Giai cấp tư sản này khi gắn liền với kinh tế nó có cách ứng xử phiến điện. Người ta khái quát cách ứng xử của nó như sau: trong trường hợp cần phát triển sản xuất thì nó không chịu đầu tư mà lại thích tăng giá hàng. Trong trường hợp sản xuất đi xuống nó không chịu thay đổi cơ sở của sản xuất mà lại giảm bớt việc cung cấp hàng. Cả hai trường hợp đều nói lên cơ sở sản xuất bất động không phản ứng lại những thay đổi của thị trường. Sự bành trướng của nhà nước quản lý không tạo nên nền dân chủ xã hội mà nó tạo ra các điều kiện cho sự ra đời của các cấu trúc cực quyền. Đây là điều mà Liên Hiệp Quốc đã cảnh báo về một sự tăng trong xấu - tăng trưởng mà mất dân chủ. Ở đây có một vấn đề nan giải đòi hỏi nhà nước phải vượt qua. Nhà nước đóng vai trò quyết định đối với việc chiếm dụng công nghệ mớn tiên tiến để đẩy nhanh công nghiệp hoá. Nhưng nhược điểm của nhà 'nước trong vấn đề này là nhiều người có trách nhiệm ở các nước đang phát triển nhận những món lợi riêng rất lớn cho cá nhân do các công ty có thể biếu tặng cho họ, do đó tạo điều kiện không phải cho Công ty nào có lợi nhất cho nền kinh tế đất nước, mà là Công ty nào tỏ ra rộng rãi đối với họ. Ở Việt Nam hiện nay tuy ít phát hiện về việc các nhân viên nhà nước nhận các quà tặng của công ty để được ưu tiên đầu tư nhưng phổ biến là tình trạng nhập thiết bị lạc hậu, thiết bị đã tân trang lại hoặc bị bán với giá quá đắt mà đằng sau việc này có tác động của các lợi ích đối với những người ra quyết định. Trong các nước Thế giới thứ Ba nhà nước không thể hiện như một xã hội chính trị độc lập mà nó hoạt động như một cấp độ chính trị công dân hỗn hợp có quan hệ thực tiến với toàn bộ xã hội. Vai trò chính trị của nhà nước còn quan trọng hơn vai trò kinh tế của nó. Và sự tác động, những mâu thuẫn xã hội trong các xã hội thế giới thứ ba không thể được tiếp cận giai cấp theo nghĩa hẹp mà đúng hơn phải được đề cập bằng những mặt trận, những liên minh rộng rãi có tính chất liên giai cấp.
Hiện nay các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đều chuyển sang kinh tế thị trường. Khác với các nước này, ViệtNam và Trung Quốc cũng lựa chọn phương thức phát triển của nền kinh tế thị trường, nhưng vẫn kiên trì tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Không có một mẫu quy chiếu nào đã có về một sự kết hợp hai cái dường như không thể kết hợp được là chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường. Như vậy đây là một thách thức lịch sử đòi hỏi một sự đáp ứng có tính sáng tạo. Có thể có một nền kinh tế thị trường định hướng theo chủ nghĩa xã hội được không? ViệtNam đang trong quá trình nhận thức vấn đề này và tìm những giải pháp thực thi quan điểm này, chính là kinh nghiệm của kinh tế thị trường của phương Tây đã rút ra: thị trường là một kẻ điều tiết tồi Cho nên cần phải có kế hoạch và sự quản lý của nhà nước. Nhưng làm thế nào cho sự điều tiết của nhà nước cần phải có những hành động tập thể của các liên hiệp tự nguyện, các hợp tác xã. Trong các hành động tập thể để điều tiết này cũng phần chống những nguy cơ quan tiêu hoá. Thị trường hoạt động theo sự tự do cạnh tranh, không chỉ là kẻ điều tiết tồi mà còn thường xuyên sản xuất ra sự bất bình đẳng, sự cạnh tranh làm cho kẻ mạnh thắng kẻ yếu, người ưu tú thắng kẻ kém ưu tú hơn. Một người lao động cần cù mà không tìm được cách sản xuất tất nhất (hạ giá thành, tăng năng suất, chất lượng) thì có thể bị phá sản. Sự thành công của người này thì có nghĩa là sự thất bại, thua thiệt của người khác. Vậy Nhà nước có những hành động can thiệp như thế nào để lành mạnh hóa thị trường và thực hiện công bằng xã hội. ở đây nhà nước phải tác động với tư cách là một nhân tố tích cực của đời sống kinh tế, vào cơ chế kinh tế xã hội. Trước hết Nhà nước can thiệp gián tiếp bằng việc vận dụng các chính sách kinh tế, tổ chức điều chỉnh, khuyến khích kinh doanh. Nhà nước là người tổ chức hướng dẫn, là người chỉ huỷ đàn nhạc của toàn bộ nền kinh tế đất nước.Nhà nước can thiệp trực tiếp bằng thiết lập sự kiểm soát trực tiếp đối với một bộ phận của lực lượng sản xuất, với tư cách là người chủ một bộ phận tư liệu sản xuất (quốc doanh, khu vực kinh tế công cộng) và bằng cách lập kế hoạch định hướng. Nhà nước khắc phục hậu quả xã hội của nền kinh tế thị trường (nạn thất nghiệp và phá sản), nhà nước đảm bảo một tiền lương tối thiểu cho mọi người lao động, và chi phí cho việc đào tạo lại người lao động để thích nghi với công nghệ mới, bằng chính sách phân phối lại. Với sự tồn tại của khu vực công hữu, nhà nước sẽ đảm bảo cho nhu cầu tập thể, giảm bớt sự bất bình đẳng, bảo đảm bảo hiểm xã hội. Bằng chính sách tài chính nghiêm ngặt nhà nước sẽ thực hiện chính sách phân phối lại mà không can thiệp vào các quá trình kinh tế. Nhà nước không can thiệp vào các quy luật cung cầu, cạnh tranh, lợi nhuận, mà chỉ can thiệp vào các tác nhân làm cho thị trường không hoạt động một cách lành mạnh (ví dụ như độc quyền, nạn tích trữ đầu cơ, lối cạnh tranh với cái gậy trên tay). Cho đến nay người ta vẫn cần đến thị trường để thực hiện sự sản xuất, phân phối, tiêu thụ một cách hiệu quả nhất, thị trường thoả mãn nhu cầu to lớn về thông tin, về nhu cầu của hàng triệu đơn vị kinh tế, gia đình và xí nghiệp, về tiêu dùng hàng triệu loại sản phẩm và dịch vụ khác nhau. Quy chế thị trường cho ta hiểu được, nắm được số lượng to lớn những chỉ số tản mạn về thị trường và công nghệ vẫn nằm trong đầu của các cá nhân. Hướng tìm tòi của thị trường xã hội chủ nghĩa cũng là hướng tương lai mong muốn của thế hệ hôm nay ở ngay các nước phát triển nhất như là Robert L. Heilbroner đã phát biểu:
1. Thị trường phải phân phối các sản phẩm và lợi tức đến tay đa số người tiêu dùng - chứ không phải như hiện nay thị trường chỉ thoả mãn nhu cầu của cá nhân.
2. Phải biến thị trường từ vai trò một người chủ như hiện nay thành vai trò của người phục vụ đắc lực cho xã hội.
3. Bước triển khai sắp tới sẽ phải là sự kết hợp đắc lực giữa hiệu quả của sản xuất và mục tiêu xã hội. Coi con người là cứu cánh chứ không phải là phương tiện. ViệtNam hiện nay đang quyết tâm đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Như vậy là ViệtNam cùng một lúc tiến vào hai làn sóng công nghiệp và hậu công nghiệp. Trong khoảng 3 thập niên tính từ 1991 đến 2020, ViệtNam sẽ hoàn thành công nghiệp hoá. Đồng thời trong thời gian này ViệtNam cũng tiến từng bước vào xã hội hậu công nghiệp với việc sử dụng công nghệ hiện đại: máy tính, viễn thông, tự động hoá nền kinh tế kiến thức và xã hội dịch vụ. Vào năm 2020 khi ViệtNam đã trở thành một nước công nghiệp thì ở các nước phát triển nhất cũng hoàn thành bước quá độ sang xã hội hậu công nghiệp. ở các nước phát triển nhất lúc đó nông nghiệp chỉ còn chiếm 3%, công nghiệp chế biến chiếm 9%, còn 88% là dịch vụ. Như vậy là việc nước ViệtNam hôm nay vừa đi vào công nghiệp vừa đi vào hậu công nghiệp (hiện đại hoá) sẽ là một phương thức phát triển rút ngắn để ViệtNam có thể hội nhập với thế giới hậu công nghiệp vào những thập niên đầu thế kỷ thứ XXI. Chúng ta đang sống trong một thời đại mà đặc trưng và tính chất của vai trò Nhà nước, ở thế kỷ XIX không như vậy và ở thế kỷ XXI không như vậy. Hiện nay ở các nước phát triển nhất người ta nói nhiều đến sự thoái triển của Nhà nước (đécroissance de l'Etat). Nghĩa là ở các nước phát triển nhất Nhà nước không đóng vai trò quyền lực tập trung như trước đây. Ở Mỹ người ta đã phê phán sự bất lực của Nhà nước (A. Toffler),ở Nhật người ta cũng nói về sự yếu đi của Nhà nước. Người Pháp cũng đang phê phán sự bất lực của nhà nước và tính ít hiệu quả của nó với tư cách "người sản xuất" (Flonn aftal1on). Nhiều công trình dự báo đã nói đến sự suy vong của nhà nước ở thế kỷ XXI từ sự phân tích các mầm mống xã hội đang xuất hiện trong lòng các nước phát triển nhất hiện nay. Thierry Gau din đã liệt kê một số biểu hiện nói lên nhà nước đang trong quá trình suy vong. Có ít nhất là có 40% nguồn thu bắt buộc mà nhà nước không chi phối, mà nó thuộc về xã hội do những tổ chức có quy tắc riêng ví dụ như "Bảo hiểm xã hội". Phần lớn các hoạt động can thiệp ngày xưa do nhà nước tiến hành, nay do một số lớn các tổ chức đặc biệt và tự trị đảm nhiệm. Tài trợ cho các tổ chức này không dựa vào thuế hoặc trợ giúp của nhà nước. Nó được thực hiện trực tiếp bằng sự đóng góp của những người tiêu thụ cuối cùng. Như vậy là làm đứt đoạn hệ thống thuế truyền thống, phá vỡ nguyên lý chí tôn của nhà nước độc quyền chi phối các tài nguyên và ngân sách công cộng. Người ta đang dự tính chẳng hạn, các hoạt động bảo vệ môi trường được tài trợ nhờ một thứ thuế mà các xí nghiệp phải đóng cho các tổ chức hoạt động xã hội bảo vệ môi trường. Tuỳ theo mức độ Ô nhiễm mà nó gây ra cuối thế kỷ XX, những người đóng thuế có quyền đưa nộp một phần thuế họ đóng vào một tổ chức do họ chọn miễn là tổ chức này phục vụ lợi ích công cộng. Xu hướng chung của các nước phát triển như Mỹ, Nhật, Cộng hoà Liên bang Đức là tiến tới phi tập trung hoá các trách nhiệm và một sự tự trị địa phương lớn hơn làm cho các quyền lực của Trung ương mất một phần các đặc quyền chính trị đã điều tiết chúng. Sự phê bình về quán tính quan liêu bàn giấy, về sự thất bại của cải cách hành chính từ những năm 80 đã tạo được đồng thuận ở khắp mọi nơi kéo theo sự mất uy tín sâu sắc của mọi dạng Nhà nước của các nước phát triển. Ở Mỹ, Anh, Pháp người ta đã đưa ra thí nghiệm việc một số nhiệm vụ xưa nay vẫn được coi là thẩm quyền độc nhất của Nhà nước nay trao cho tư nhân đảm nhiệm: các nhà tù tư nhân, các đội cảnh đô thị và các đội bảo vệ tư nhân. Các tổ chức siêu quốc gia ngày càng có ảnh hưởng và có thể can thiệp vào tất cả các nước. Quân đội phục vụ cho những lực lượng can thiệp quốc tế. Cảnh sát chống lại tội ác được tổ chức thành mạng lưới siêu quốc gia. Interpol có tầm du trọng ngày càng lớn so với các đội quân cảnh sát địa phương. Từ năm 80 người định tạo ra cho âu châu một đội cảnh sát liên bang có thể can thiệp vào tất cả các Nhà nước. Tiền tệ quốc tế hoá, các thị trường chứng khoán ở khắp hành tinh có tiếng nói cuối cùng. Thông tin cũng có tính quốc tế. Vô tuyến truyền hình cho cả thế giới nhìn thấy sự kiện ở một địa phương trước khi các công sở chính thức được báo cáo. Chủ nghĩa quan liêu bị hoà tan trong viễn thông tin học.Các mô hình quyền lực, một chức năng siêu quốc gia đã xuất hiện ngày càng nhiều ở nửa sau thế kỷ XX. Các thể chế chuyên môn của Liên Hiệp quốc, Interpol cho cảnh sát, Intelsat cho viễn thông bằng vệ tinh, ISO cho công tác tiêu chuẩn hoá. Từ 1865 đã thành lập liên hiệp quốc về viễn thông, nó là cơ sở cho 100 năm sau khi cộng đồng Châu Âu thành lập, có nhiệm vụ quản trị cách thức điều hoà hải quan giữa các thành viên cũng như điều hoà một số chính sách chung khác trong đó có nông nghiệp và nghề cá. Từ những năm 1990 cộng đồng kinh tế Châu Âu EEC ra khỏi vai trò chuyên môn để trở thành quyền lực rộng hơn về mặt thương mại và phát triển kinh tế ở Châu Âu.