Một số tờ báo tiêu biểu từ khởi thuỷ đến năm 1945

03:38 CH @ Thứ Bảy - 09 Tháng Giêng, 2016

Ngày 15-4-1865: Gia Định báo - tờ báo quốc ngữ Việt Nam đầu tiên - ra số 1 tại Sài Gòn, đánh dấu cột mốc khởi nguyên của lịch sử báo chí Việt Nam. Ngày 21-6-1925: Tuần báo Thanh niên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập ra số đầu tiên, khai sinh nền báo chí cách mạng Việt Nam và ngày này được trang trọng chọn làm Ngày Báo chí Việt Nam. Cùng với sự phát triển của đất nước, báo chí Việt Nam cũng đã có những bước phát triển kỳ diệu. Đến nay, cả nước đã có 524 cơ quan báo chí với 650 ấn phẩm báo chí, 50 đơn vị báo điện tử và hơn 10.000 người được cấp thẻ nhà báo đang hoạt động. Xin giới thiệu một số tờ báo tiêu biểu từ khi báo Việt Nam mới bắt đầu hình thành đến năm 1945.

Gia Định báo

Tờ báo quốc ngữ đầu tiên là tờ Gia Định báo, xuất bản từ năm 1865 và đến tận năm 1897 mới đình bản. Đây là một tờ tuần báo, nhưng ngày ra không nhất định - khi thì thứ ba, khi thì thứ tư hoặc thứ bảy. Số trang cũng không ổn định từ 4 đến 12 trang. Báo có khuôn khổ 25x32 (cm), giá bán mỗi số là 0,17 đồng (nếu đặt mua cả năm là 6,67 đồng).

Gia Định báo do Trương Vĩnh Ký khởi xướng và làm chủ nhiệm, cùng các cộng tác viên Huỳnh Tịnh Của (chủ bút), Trương Minh Ký, Tôn Thọ Tường .... Ban đầu nội dung báo gồm 2 phần: công vụ và tạp vụ, về sau có thêm phần mở rộng (phần khảo cứu, nghị luận)

Phần công vụ chuyên về lĩnh vực chính trí, pháp lý và công quyền. Phần này đăng tải các sắc lệnh, nghị định, thông tư, đạo lệnh, chỉ, dụ... của Chính quyền Bảo hộ Pháp và Triều đình Nguyễn; những thông tin về cấp bằng, thăng chức, hạ chức, bãi chức, thuyên chuyển công tác, hoạt động quân sự, biên bản các cuộc họp của Hội đồng Quản hạt; những tin 'dây thép' của hãng Hanas.

Phần tạp vụ đề cập nhiều lĩnh vực kinh tế, tôn giáo, văn hóa, xã hội... với các mục như lời dặn, khuyến cáo, rao giảng mang tính tuyên truyền hành chính; những tin liên quan đến lạm phát, giá cả, sưu thuế; các báo cáo về tình hình canh nông, thương mại, kỹ nghệ, địa chính v.v... Có cả một số bản tường thuật về lễ đón, lễ hội, cuộc chiêu đãi, đám tang...

Phần mở rộng có các giá trị và sức cuốn hút nhất. Đây là phần khảo cứu, nghị luận về văn hóa, đạo đức, phong tục, lễ nghi, tư tưởng, lịch sử, thơ văn v.v... Các bài đăng ở phần này có thể chia làm 3 loại:

Loại truyền bá khoa học thực nghiệm - từ y tế, vệ sinh, kỹ thuật đến vật lý, hóa học, tự nhiên học...

Loại luận thuyết nhằm cải tiến xã hội - từ tư tưởng, triết học, đạo đức, lịch sử đến tôn giáo, thần học, chiêm tinh...

Loại phổ biến khoa học ngôn ngữ gồm những sáng tác, sưu tầm khảo cứu, dịch thuật từ tiếng Hán, Pháp, Anh; những chuyên luận, bình giảng thơ văn cổ, tìm hiểu chữ Nôm, truyền thuyết, tục ngữ, ca dao, dân ca, cổ tích, ngụ ngôn...

Ngoài những phần trên, Gia Định báo còn có mục quảng cáo gồm những lời cáo dưới dạng thông báo, nhắn tin, bố cáo, cáo phó v.v... và những lời rao vặt như trên các báo Pháp thời đó.

Tuy còn nhiều điểm hạn chế: chưa phân biệt rõ văn phong nói và viết nên tính chất nôm na, khẩu ngữ khá đậm nét; hình thức mỹ thuật chưa đẹp v.v... nhưng với nội dung giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, phổ biến, cổ vũ chữ Quốc ngữ, cung cấp kiến thức, thông tin mọi mặt cho nhân dân, trong suốt 32 năm tồn tại, Gia Định báo đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, xứng đáng là tờ báo tổng hợp có giá trị cao và tạo tiền đề cho báo chí Việt Nam phát triển.

Nông Cổ Mín Đàm

Ra đời tại Sài gòn ngày 1-8-1901

Tờ này được một người Pháp sáng lập là ông Canavaggio, Hội Đồng quản hạt. Sau đó được điều khiển bở các ông Đỗ Thúc, Lương Khắc Ninh, Gilbert Chiếu, Nguyễn Đông Trụ, Lê Văn Trung, Tân Châu, Nguyễn Chánh Sắt. Báo xuất bản mỗi tuần một lần. Về phương diện văn chương, cách hành văn của tờ báo này còn rất thô sơ. Có thể tìm thấy trong tờ báo mọi vấn đề liên quan đến canh nông hay kỹ nghệ...

Lục tỉnh Tân Văn

Do ông Francois Henri Schneider (chủ một tờ báo ở miền Bắc) trở vào Nam, thành lập năm 1907. Số đầu tiên của tờ Lục Tỉnh Tân Văn được phát hành ngày 15-11-1907. Đầu tiên mỗi tuần một lần, sau 3 lần vào ngày thứ hai, thứ tư và thứ sáu. Giá bán mỗi số là 0,04 đồng.

Về phương diện hình thức, những bài báo được xếp nối tiếp nhau và không chú trọng đến kỹ thuật trình bày như thế nào để tờ báo trông cho đẹp. Những mục quảng cáo lại được xếp chung bên cạnh những tin tức quan trọng ở ngay trang nhất. Tờ báo đề cập đến mọi vấn đề trong nước cũng như ngoài nước như Pháp, Đức, Nga.

Nam Phong tạp chí

Ngay từ trước năm 1914 người Pháp đã thiết lập một chế độ bảo hộ trên toàn cõi lãnh thổ Việt Nam và tạo nên ở miền Nam Đông Nam Á một quốc gia được gọi là Đông Pháp. Trong giai đoạn đầu, người Pháp lập ra một nền hành chính mới đồng thời tiếp tay với triều đình Huế đàn áp tất cả những phong trào đấu tranh bạo động cũng như bất bạo động nổi lên chống Pháp. Khi tình hình trong nước được ổn định, họ bắt đầu khai thác tài nguyên xứ sở. Mặt khác, người Pháp còn nghĩ đến việc đào tạo ra những quan lại mới để phục vụ cho họ trong các cơ quan hành chính: Chính phủ Pháp đã cải tổ lại hoàn toàn chế độ học vấn. Họ khuyến khích người Việt học hỏi nền văn hóa Tây phương với một tinh thần hết sức thiển cận và làm cho họ quên lãng những cuộc nổi dậy chống Pháp xảy ra trong thời gian chiến tranh 1914-1918.

"Trong tình hình này, chính phủ có sáng kiến lập ra một tạp chí bằng tiếng bản xứ để cho người Annam dễ thực thi chính sách giáo dục và tuyên truyền mà chúng ta cần phải đeo đuổi".

Tạp chí Nam Phong ra đời, A. Sarraut giao cho Louis Marty, giám đốc Phòng an ninh và chính trị Đông Dương, có trọng trách điều khiển.

Số đầu tờ Nam Phong ra ngày 1-7-1917. Đó là một loại bách khoa nguyệt san, khổ 19x27,5cm. Người sáng lập là L.Marty, giám đốc Phòng Nghiên cứu chính trị của chính phủ Đông Pháp và chủ bút là Phạm Quỳnh.

Nam Phong Tạp Chí sống khoảng thời gian dài (1917-1934) nên nội dung có biến đổi tùy tình hình trong nước và do tham vọng chính trị của chủ bút Phạm Quỳnh.

Mục đích của tờNam Phong chỉ là công cụ của bộ máy tuyên truyền của chính phủ Pháp. Mục đích của nó là tôn trọng, ca ngợi người Pháp, chống lại sự bêu xấu của Đức qua các sách báo Trung Hoa ở Việt Nam.

Về phương diện văn học: mặc dù mục tiêu chính trị của tạp chí Nam Phong quá hiển nhiên, nhưng dù sao chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng tờ báo trên phương diện nào đó đã góp phần rất đắc lực vào việc phát triển nền văn học nước nhà.

Nữ giới chung

A.Sarraut từ lâu đặc biệt chú ý đến những thành phần trí thức Việt Nam tuy nhiên ông ta cũng không quên một thành phần khác mà từ lâu bị bỏ quên trong xã hội Việt Nam. Đó là phụ nữ.

"Ngay sau khi đến Saigon và trong chương trình nhằm cải cách nâng cao mức sống xã hội dân Annam, ông A.Sarraut đã cho phép xuất bản một tờ tạp chí phụ nữ đầu tiên dùng để nâng cao mức sống của phụ nữ".

Phát hành ngày 1-2-1918, tờ Nữ giới chungchỉ là một tờ tuần báo xuất bản mỗi thứ sáu. Chủ nhân tạp chí này là một người Pháp tên là Henri Blaquière, ông này còn làm giám đốc một tờ báo khác bằng tiếng Pháp, tờLe Courrier Saigonnais. Ông Blaquière giao phó cho bà Sương Nguyệt Anh điều khiển ban biên tập.

Nội dung đăng những bài xã luận, thơ, tiểu thuyết, một vài tin tức và có cả một phần dạy làm bếp. Trong số đầu, vị chủ bút, bà Sương Nguyệt Anh đã ghi rõ mục đích của tạp chí là chú trọng đến việc truyền bá chữ quốc ngữ và nhất định không đề cập đến vấn đề chính trị.

Tờ Nữ giới chung là một tờ báo phụ nữ đầu tiên ở Việt Nam, sự xuất hiện của nó quả là một biến cố quan trọng đối với dân chúng lúc bấy giờ, đặc biệt là đối với phụ nữ Việt Nam.

Sau gần một năm ra mắt độc giả,Nữ giới chung phải đình bản vào cuối năm 1918 và biến thành một tờ báo khác: tờ Đèn Nhà Nam.

Học báo

Tờ Đông Dương Tạp chí do Nguyễn Văn Vĩnh điều khiển trong thời gian 5 năm (từ 1913-1918) thì đình bản và biến thành một tạp chí khác lấy tên là Học báo. Tờ Học báo ra ngày 01-09-1919, đây là một tờ tạp chí hoàn toàn có tính cách sư phạm. Tờ này được in thành hai thứ tiếng Pháp và Việt cũng do Nguyễn Văn Vĩnh điều khiển và đặt dưới sự bảo trợ của Nha tiểu học Bắc Kỳ và được dùng trong các trường tiểu học, với sự cộng tác đắc lực của Trần Trọng kim và một số giáo viên khác. Tờ báo phát hành mỗi tuần 1 lần và đăng những bài theo đúng chương trình học do chính phủ đưa ra, gồm có hai phần: phần tiếng Việt và phần tiếng Pháp. Tờ này nhằm giúp đỡ các giáo viên những tài liệu cần thiết cho việc giảng dạy của họ ở các trường tiểu học.

Nam Kỳ địa phận

Tờ báo Thiên Chúa Giáo của L.m.Mossard, số 1 ra ngày 26-11-1908 và số cuối ra ngày 15-2-1945, phổ biến giáo lý Thiên Chúa Giáo tại Nam Kỳ, tuần báo ra ngày thứ năm.

An Nam tạp chí

Sau khi từ chức chủ bút tờ Hữu Thanh, Tản Đà cho ra đời một tạp chí của riêng ông, đó là tờ Annam Tạp Chí. Số đầu tiên ra ngày 1-7-1926. Tuy nhiên khi tờ báo vừa ra đã gặp phải bao nhiêu trở ngại, nó chống chỏi bao nhiêu khó khăn để sống đến tháng 3-1927 và ra được 10 số thay vì 18 số như đã định trước, vì lý do tài chính tờ báo bị đình bản. Vị chủ bút, thi sĩ Tản Đà, rời Hà Nội làm một chuyến viễn du từ Bắc vào Nam. Sau đó ông trở về Bắc và nhất quyết làm sống lại tờ báo. Số 11 của lần tục bản Annam Tạp Chí lại ra đời (tháng 7-1930). Sau nhiều lần di dời trụ sở và vì chủ bút là một thi sĩ nghèo, năm 1933 Annam Tạp Chí bị đình bản vĩnh viễn.

Đông Tây tuần báo

Tờ báo do Hoàng Tích Chu và Đỗ Văn đứng ra sáng lập, ra số 1 ngày 15-11-1929. Về nội dung thì chưa có gì tích cực, nhưng về hình thức (cách hành văn, cách trình bày bào vở) thì gần như là một cuộc cách mạng thay cũ đổi mới.

Lối hành văn báo chí được Hoàng Tích Chu cải cách lại, và công lao về cải cách hình thức tờ báo là của Đỗ Văn. Nhờ ông mà hình thức tờ báo trở nên hấp dẫn, tươi đẹp hơn đối với độc giả.

Công lao của Hoàng Tích Chu và Đỗ Văn đáng được ghi nhớ trong lịch sử báo chí nước ta. Đông Tây tồn tại đến ngày 25-7-1932.

La Cloche Fêlée (cái chuông rè)

Tờ báo do chí sĩ Nguyễn An Ninh chủ trương. Ông là kẻ thù của thực dân, do đó tờ báo chịu đựng quá nhiều thử thách. Ai cũng nhìn nhận rằng Nguyễn An Ninh là nhà cách mạng nhiệt thành, yêu nước một cách tích cực, bằng hành động. Tờ báo La Cloche Fêlée là phương tiện hữu hiệu để chí sĩ họ Nguyễn thực hiện lý tưởng của mình. Mặc dù tờ báo có tiêu đề là "Cơ quan tuyên truyền cho tư tưởng của nước Pháp, những tư tưởng nào cao đẹp đều được chúng tôi chấp nhận".

Mặc dù vậy, trong lịch sử báo chí Việt Nam, chưa có tờ báo nào bị đe dọa và trù ếm như La Cloche Fêlée. Học sinh mà đọc nó thì dễ bị đuổi, nếu bắt gặp; công chức thì bị bắt, rồi ngồi tù. Chủ báo và luôn cả ấn công đều bị nhân viên mật thám thường xuyên theo dõi, đe dọa. Vì vậy, để tờ báo được thành hình, Nguyễn An Ninh phải làm hầu hết mọi việc: viết bài, tiếp tay với ấn công để sắp chữ, rồi đích thân đem báo ra đường để bán lẻ.

Kể từ ngày 26-11-1925, sau vài rắc rối gặp phải khi va chạm đến chính quyền. Nguyễn An Ninh giao tờ này cho luật sư Phan Văn Trường nắm phần chủ trương. Ngày 3-5-1926 tờ LaCloche Fêlée đình bản rồi tục bản ngày 6-5-1926 với cái tên mới L'Annam .

L'Annam

Phan Văn Trường là người dám công khai chống đối một cách tích cực chế độ thực dân. Ông là nhà trí thức tiến bộ đã từng quan hệ chặt chẽ trong thời gian du học ở Pháp, với Nguyễn ái Quốc. Ngoài số trợ bút người Việt Nam như Nguyễn Văn Long, Nguyễn Huỳnh Điểu, Nguyễn Khánh Toàn, luật sư Nguyễn Ngọc Thoại, ông Phan Văn Trường còn được sự hợp tác của hai cây bút người Pháp.

Tôn chỉ của tờ báo được ghi rõ, đó là lời của Mạnh Tử: "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh". Những bài báo do Phan Văn Trường và hai cộng sự người Pháp đều nhằm vào việc tấn công chính sách của người Pháp ở Đông Dương, đặc biệt là viên toàn quyền A.Varenen, vốn là đảnh viên đảng xã hội Pháp. Ngày 25-7-1927, sau khi ông Phan Văn Trường bị bắt về "tội xúi dục người bổn xứ chống đối và dấy loạn". Ngày 12-1-1928, báo này lại tục bản, vẫn theo đường lối sơ khởi. Trước thái độ ngoan cường ấy, thống đốc Nam Kỳ đã truy tố và bỏ tù tất cả Ban giám đốc và cộng sự viên của tờ này.

Phụ nữ Tân Văn

Ra đời tại Sài Gòn vào năm 1929, tờ báo được mọi giới tán thưởng, không những chỉ phổ biến rộng ở Nam Kỳ mà còn được độc giả hai miền Bắc, Trung đón nhận vời nhiều tình cảm tốt.

Phụ nữ Tân Văn là tuần báo ra ngày thứ năm, cách trình bày khá gọn gàng, ngoài bìa vẽ 3 cô gái Bắc Trung Nam với câu "Phấn son tô điểm sơn hà, làm cho rõ mặt đàn bà nước Nam", chủ nhiệm là bà Nguyễn Đức Nhuận.

Ngay trong số ra mắt ngày 2-5-1929, Phụ nữ Tân Văn vạch mục đích là đề cập đến những vấn đề liên quan đến nữ giới, sự quan hệ và trách nhiệm của nữ giới trong đời sống quốc gia và xã hội. Tờ báo không đứng riêng theo phe phái nào, chỉ biết có chân lý, ý chí và tổ quốc. Ngoài ra tờ báo không bỏ qua những vấn đề xã hội, liên quan đến sinh hoạt đời thường nhật, trong gia đình.

Chủ bút Phụ nữ Tân Văn là Đào Trinh Nhất, một người làm báo nhà nghề, lừng danh.

Theo nghị định ngày 20-12-1939, Phụ nữ Tân Văn bị đình bản, chính phủ thực dân viện lý do là báo này đã "mạ lị"; ông Bùi Quang Chiêu về tội dính líu mật thiết với nhóm thực dân cá mập Homberg.

Báo Thanh niên

Đích thân lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc điều khiển báo này từ năm 1925. Tờ báo là cơ quan tuyên truyền của Việt Nam Thanh Niên cách mạng đồng chí hội, ra hằng tuần bằng tiếng Việt, in tại Quảng Châu (Trung Quốc), được tất cả 88 số cho những người Việt Nam sống ở phía Nam Trung Quốc, một số khác chuyển về Việt Nam, cũng như tới các trung tâm phong trào yêu nước của người Việt Nam ở nước ngoài.

Báo mỗi kỳ ra 2 trang, gồm các mục: xã luận, bình luận, diễn đàn phụ nữ, phê bình, tin tức, thơ ca, vấn đáp, trả lời bạn đọc, việc?'.

Báo Thanh Niên có nhiệm vụ tuyên truyền tôn chỉ và mục đích của Tổng bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, đồng thời thông qua những bài báo trình bày một cách có hệ thống một số vấn đề cơ bản về đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam, về lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Tờ báo kêu gọi đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước ra sức đoàn kết chiến đấu chống chủ nghĩa đế quốc để giành lại độc lập dân tộc.

Báo Thanh Niên giữ một vai trò lịch sử đặc biệt quan trọng, mở đầu cho việc tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước theo quan điểm Mác-Lênin, viết bằng tiếng Việt, được phổ biến rộng khắp cả nước, trong nhân dân Việt Nam, nhất là trong tầng lớp thanh niên, công nhân, nông dân,... nhằm chuẩn bị tư tưởng, lý luận chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ngày 21-6-1985, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 60 ngày xuất bản tờ báo Thanh Niên, ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định lấy ngày 21-6 hàng năm là "Ngày báo chí Việt Nam".

Loa

Tạp chí Loa ra đời ngày 8-2-1932, phát hành vào ngày thứ năm mỗi tuần. Đây là một tờ báo trào phúng với nhiều tranh biếm họa rắt đặc sắc, được đặt dưới sự điều khiển của Bùi Xuân Học, nhưng linh hồn của tờ báo chính là họa sĩ Côn Sinh Đỗ Mộng Ngọc. Về phương diện văn học, Loa không thể vượt nổi hai tờ báo đàn anh Phong HóaNgày Nay; tuy nhiên, Loa lại thành công trong việc đã chinh phục được nhiều độc giả từ Bắc vào Nam.

Nhưng sau những bài cười cợt với chính phủ thuộc địa, nhà cầm quyền buộc phải bịt miệng Loa; Loa số 103 ra vào ngày 2-1-1934 là số cuối cùng. Về phương diện hình thức, cách trình bày trang báo rất sáng sủa và rất đẹp, nhất là sự xuất hiện những hình ảnh màu.

Phong hóa

Chính qua tuần báo Phong Hóađổi mới mà nhóm Tự Lực Văn Đoàn ra mắt quốc dân. Tờ báo ra đời như một trái bom nử, mang lại cho xã hội Việt Nam khi đó một món quà người ta chưa hề được thưởng thức: cái cười. Xã hội ta xưa vốn đã có những câu thơ trào phúng, những câu chuyện tiếu lâm. Song ở đây, cái cười không vụn vặt như trước mà hiện ra như một chuyên môn, do những người chuyên bóp óc nghĩ cách cù cho người ta cười. Nhất là không chỉ cười bằng câu chuyện kể mà còn bằng những bức tranh khôi hài, những chân dung hí họa. Cái cười đã giúp cho họ chinh phục độc giả, nhất là giúp họ thực hiện đả phá những tục lệ cổ, đả đảo nhân vật thời danh, khoác cho mỗi người một nét vẽ hài hước, một biệt hiệu châm biếm...

Người đọc mua cười lấy làm vui, nhưng người bị cười tất nhiên không vui chút nào, nhất là khi người đó có quyền thế, cho nên Phong Hóa sau khi đã chỉa mũi vào đủ các nhân vật tai to mặt lớn bấy giờ, báo bị đóng cửa ba tháng (6,7,8 năm 1935). Sau đó, ra tiếp được hơn một năm và đến đầu năm 1936 thì bị đóng cửa vĩnh viễn.

Ngày nay

Từ khi còn tờ Phong Hóa, Ngày Nay đã ra đời rồi. Ra Phong Hóa được hai năm, nhóm Tự Lực Văn Đoàn nhận thấy đã được nổi tiếng, gây được nhiều ảnh hưởng bằng trào phúng và tiểu thuyết, bèn quyết định mở thêm một mặt trận nữa để chinh phục độc giả. Tờ báo thứ hai của nhóm, tờ Ngày Nay ra đời.

Tờ Ngày Nay loại hẳn mục trào phúng và chuyên về phóng sự điều tra (phóng sự ngày Tết, điều tra về nạn trộm cướp ở thôn quê, về bí mật đời sống sư vãi) với rất nhiều hình ảnh chụp có tính cách mỹ thuật, tựa như những tạp chí ngoại quốc. Đây cũng là tất cả một sự mới lạ đối với độc giả Việt Nam khi đó, cho nên cũng rất được hoan nghênh. Nhưng ấn loát tốn kém quá, lại vì phải lo cho cả hai tờ cùng lúc nên chia sức ra, Phong Hóa vì vậy mà sa sút giá trị, họ đành phải đình bản Ngày Nay sau khi ra được 13 số và dành cả sức vào tiếp tục Phong Hóa.

Đến đầu năm 1936, Phong Hóa bị thu giấy phép, Ngày Nay mới được xuất bản lại. Số cuối cùng của tờ Ngày Nayra mắt độc giả vào ngày 2-9-1940.

Tuy nhiên, sau cuộc đảo chính Nhật ở Đông Dương, tờ Ngày Nay lại tục bản vào ngày 15-5-1945. Đến ngày 18-8-1945 vai trò của Ngày Nay đành phải chấm dứt vì lịch sử đã sang trang: Cách mạng tháng Tám thành công và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.

Nội dung liên quan

  • Cách đây một thế kỷ, những người khổng lồ

    12/05/2009Nguyên NgọcQuả thực, hồi đầu thế kỷ XX, chúng ta từng có được một thế hệ vàng. Quả thật đấy là thời kỳ của những người khổng lồ. Để có được ngày hôm nay của đất nước, không phải chỉ có cách mạng và chiến tranh. Hoặc nói cho đúng hơn, chính những con người như vậy, vào một thời điểm chuyển động quan trọng của lịch sử, đã góp phần không hề nhỏ chuẩn bị tinh thần, trí tuệ, cả chí khí nữa cho dân tộc để có được cách mạng thành công và chiến tranh giải phóng thắng lợi.
  • Tật huyền hồ lý tưởng

    05/02/2021Nguyễn Văn VĩnhXét trong văn chương nước Nam, điều gì cũng toàn huyền hồ giả dối hết cả, không có cái gì là thực tình. Người làm thơ thì ngâm những cảnh núi Thái Sơn, sông Hoàng Hà, giời cao, bể rộng. Núi Tản Viên, sông Nhị Hà sờ sờ trước mắt, thì cảnh không ứng bao giờ. Có cao hứng mà vịnh đến thì cũng phải viện đến cái gì ở đâu xa, chưa biết, chưa trông thấy.
  • Phạm Quỳnh và quá trình tiếp nhận văn hóa phương Tây ở Việt Nam đầu thế kỷ XX

    25/03/2018Vương Trí NhànKhi một người có hoạt động thực sự trên lĩnh vực văn hoá, trở thành có đóng góp về văn hoá, người đó nhất thiết phải có tình cảm tốt đẹp và sâu sắc với dân tộc, với đất nước. Ấy là niềm tin đến với chúng tôi khi lần giở lại Nam Phong. Nó cũng là nhân tố giúp chúng tôi yên tâm khi tìm hiểu những đóng góp của Phạm Quỳnh...
  • Nguyễn An Ninh với đạo làm báo

    04/12/2017Hồ Ngọc NhuậnNguyễn An Ninh là người làm báo Việt Nam duy nhất mà tôi biết có mười điều răn cho người An Nam đồng bào đồng đạo của mình...
  • Cụ Quỳnh khóc cụ Vĩnh

    19/07/2017Nguyễn Đình ChúNguyễn Văn Vĩnh chủ bút Đông Dương tạp chí – Phạm Quỳnh chủ bút Nam Phong tạp chí. Cuộc đời hai Cụ mỗi người một vẻ, nhưng số phận lại có chỗ na ná nhau, với người đời, kẻ đặt lên cao, người hạ xuống thấp. Có điều là thời gian xem ra đang ủng hộ hai Cụ. Chẳng biết, sinh thời, hai cụ gắn bó với nhau tới đâu, nhưng cứ vào bài thơ Cụ Quỳnh khóc Cụ Vĩnh năm 1936 thì tình bạn của hai cụ chắc là thắm thiết lắm.
  • Nhìn lại phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục

    05/07/2017Nguyễn Trọng TínBỏ lối học từ chương khoa cử, tập trung cho thường thức và thực nghiệm, dạy cả tiếng Việt, Pháp và Hán văn. Chủ trương này lại xuất phát từ tầng lớp nho gia cuối cùng của Việt Nam. Không chỉ thế, chấn hưng công thương, khai mỏ, lập đồn điền, cắt tóc, xuất dương du học… cũng là chủ trương của họ. Dù chỉ tồn tại trong 9 tháng (5.1907 – 1.1908), nhưng trường Đông Kinh Nghĩa Thục thực sự là đỉnh cao của cuộc cách mạng xã hội to lớn đầu thế kỷ 20 có tên là Duy Tân
  • Báo chí - nhà báo và sự hình thành tầng lớp trí thức hiện đại đầu thế kỷ XX

    21/06/2017Trần Văn ToànKhái niệm trí thức hiện đại ở đây được hiểu trong sự đối nghĩa với trí thức - kẻ sĩ trong xã hội Việt Nam truyền thống. Sự hiện diện của tầng lớp trí thức hiện đại, trên thực tế, mới chỉ xuất hiện ở giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Bài viết này sẽ tập trung làm sáng tỏ vai trò của báo chí - một thiết chế văn hóa có nguồn gốc phương Tây - đã đóng vai trò như một dung môi, một tiền đề vật chất cho sự xuất hiện của tầng lớp trí thức hiện đại như thế nào...
  • Chân dung thật của học giả Nguyễn Văn Vĩnh

    06/06/2017Anh VũBộ phim tài liệu- dài gần bốn tiếng đồng hồ chiếu liền một mạch -“Mạn đàm về người man di hiện đại”, cố gắng xây dựng một chân dung thật minh oan cho học giả Nguyễn Văn Vĩnh, người từng bị cho là tay sai, bồi bút cho thực dân Pháp hơn nửa thế kỷ qua.
  • Cách mạng tháng 8 và người trí thức

    02/09/2016Mai ThụcKỷ niệm 63 năm Cách mạng tháng Tám – “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” tuổi 63, người trí thức bừng tỉnh trước nền kinh tế thị trường hội nhập toàn cầu diễn ra trên đất nước ta như một cơn lốc xoáy. Rất lâu rồi, bây giờ mới có những hội thảo, những chuyên đề về vai trò của trí thức. Mọi người đồng thanh xác định vị trí của trí thức trong các ngành...
  • Nhà báo - nhà văn, viết văn - viết báo

    21/06/2016Văn GiáMấy năm gần đây, thỉnh thoảng trong báo giới và văn giới của ta lại thấy vẩn lên câu chuyện: Nhà báo viết văn và nhà văn viết báo. Vế thứ nhất gần như mặc nhiên và được xem là thuận chiều, không có gì cần bàn lắm. Chủ yếu là ở về thứ hai. Có một số nhà văn tuyên bố ra miệng rằng: viết báo đối với họ chẳng qua là nghề tay trái, là “lấy ngắn nuôi dài”, là lo cái chuyện độ nhật... mà thôi.
  • Thói tệ

    14/04/2016Nguyễn Văn VĩnhMấy năm nay ở Hà–nội tự dưng thành ra một thói tệ, là khi có đám cháy trong thành–phố, thì nhà nào nhà ấy đóng chặt cửa lại, còn người đi qua đi lại thì chạy trốn. Sự đó bởi sao?
  • Chí tiên phong

    23/03/2016Dương Trung QuốcCuối thế kỉ XX, người ta mới bắt đầu nói đến “ Nền kinh tế tri thức”, nhưng trên thực tế, cách đây hàng thế kỉ nước ta đã có một nhân vật danh tiếng cả trong đời sống kinh tế và văn hóa, ông xứng đáng được gọi là người tiên phong đi vào “nền kinh tế tri thức”, đó là Nguyễn Văn Vĩnh.
  • Cái thẻ bài của mấy ông quan

    08/01/2016Nguyễn Anh NinhNguyễn An Ninh, nhà yêu nước vĩ đại, đồng thời là một cây bút chính luận lớn. Với một bút pháp độc đáo trầm thống, sâu sắc, châm biếm, Nguyễn An Ninh đã viết nên những kiệt tác nhỏ bằng tiếng Pháp. Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu một vài bài trong Nguyễn An Ninh - Tác phẩm sắp xuất bản.
  • Để Việt Nam cất cánh

    21/02/2015Nguyễn Trần BạtHội nhập quốc tế là một cơ hội để Việt Nam có thể cất cánh. Nhưng để cất cánh chúng ta đang phải đứng trước những sự lựa chọn rất quan trọng. Chọn lối đi nào cho đất nước để cất cánh?
  • Sơ lược về đời làm báo của Phan Khôi

    09/10/2014Lại Nguyên ÂnPhan Khôi (1887-1959) can dự văn chương không hiếm khi với tư cách người sáng tác (làm thơ, viết truyện ngắn, truyện dài) nhưng thường khi với tư cách người bình luận, người nghiên cứu, hoặc với tư cách dịch giả. Hoạt động của ngòi bút ông gắn với báo chí đến mức di sản của ngòi bút ông có cơ mất hút trong mắt các lớp hậu thế nếu họ chỉ đi tìm ông theo cái kênh dễ soi là sách xuất bản thời trước và do vậy chỉ thấy được một ít văn phẩm (Chương Dân thi thoại, Việt ngữ nghiên cứu, …) dường như chưa xứng tầm cỡ tác giả!
  • Nguyễn Văn Vĩnh, một người Nam mới đầu tiên

    17/09/2014Đỗ Lai ThúyBạn tôi nói, làm một người Việt Nam mới bây giờ đã khó thì làm một người Nam mới (Tân Nam tử) như Nguyễn Văn Vĩnh hồi đầu thế kỷ XX hẳn khó hơn nhiều. Đúng vậy. Vào những năm đầu thế kỷ trước, Việt Nam chủ yếu vẫn là một xã hội quân chủ nông nghiệp Nho giáo. Người Việt Nam, kể cả tầng lớp có học bấy giờ, vẫn phải sống thân phận thần dân nhiều trói buộc. Đâu có được như ngày nay: đất nước thì đổi mới và mở cửa; thế giới thì ngày một trở nên phẳng; con người thì đang dần là công dân trái đất! Nhưng, có lẽ, thời ấy bộ phận trí thức hình như có quyết tâm đổi mới xã hội cao lắm thì phải. Và, một điều nữa cũng quan trọng không kém: họ là những cá nhân có tài năng.
  • Một trường học yêu nước đầu tiên ở Hà Nội

    10/09/2013Nguyễn Vinh PhúcTừ giữa năm 1906 dân phố Hàng Đào thấy các nhà nho có tên tuổi như phó bảng Hoàng Tăng Bí, cử nhân Dương Bá Trạc, tú tài Lê Đại, huấn đạo Nguyễn Quyền... thường xuyên lui tới nhà cụ cử Lương Văn Can ở số nhà 4. Lại có cả các vị thanh niên Tây học danh tiếng như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Bùi Đình Tá... cũng có mặt. Chẳng biết họ bàn việc gì song ai nấy đều đoán là liên quan đến "quốc sự" rồi.
  • Chuyện về chiếc ghế tràng kỷ

    16/12/2009Nguyễn Mỹ Anh KimNhờ có chữ viết mẹ đẻ mà từ cả trăm năm trước những người Việt Nam bình thường nhất cũng có thể tiếp cận được với tinh hoa Văn hoá của Nhân loại, đặc biệt trong Văn học Pháp. Tinh hoa Văn hoá không bao giờ là của riêng ai, hay riêng một Dân tộc nào, hay riêng một Quốc gia nào. Biết ơn Học giả Nguyễn Văn Vĩnh, cám ơn những cống hiến của ông trong ngôn ngữ, Văn học và Văn hoá nước nhà.
  • Nhà chính trị và nhà văn hóa Phạm Quỳnh (1892- 1945)

    02/12/2009GS. NGND Trần Thanh ĐạmHơn 60 năm nay, ông là một câu hỏi lớn, một mối hồ nghi trong dư luận và nhận thức của bao nhiêu người ở bên này bên kia chiến tuyến. Giằng xé đó làm cho vấn đề Phạm Quỳnh càng trở nên rắc rối, phức tạp thêm. Cách mạng khó giải thích, thanh minh, phản cách mạng muốn khai thác, lợi dụng. Nỗi đau của gia đình ngày càng lớn vì sự oan khuất của ông.
  • Đạm Phương nữ sử - nữ kí giả Việt Nam tiên phong đấu tranh vì sự tiến bộ của phụ nữ

    28/11/2009TS. Đỗ Hằng- ThS. Phương HàĐạm Phương Nữ Sử là một phụ nữ xuất thân từ hoàng tộc, một công nương của nhà Nguyễn, với rất nhiều tác phẩm có giá trị, bà không chỉ là gương mặt nổi bật trong lĩnh vực văn chương báo chí, mà còn giữ vai trò quan trọng trong các hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX.
  • Chữ Quốc ngữ

    28/10/2009Nguyễn Văn VĩnhTrước hết chữ quốc-ngữ không biết bởi ai mà thành ra, nhưng quyết được rằng những người dùng đầu-tiên, không phải là người Đại-pháp. Ý hẳn là bởi mấy ông cố-đạo Bồ-đào-nha đến đất Nam-kỳ từ đầu XVII thế-kỷ, cho nên nhiều vần không giống vần Đại-pháp.
  • Giáo dục hơn là một công nghệ!

    16/10/2009Đại tá Tiến sĩ Đỗ Kiên CườngTừ 1980, khi mới là một giảng viên trẻ tại Học viện Quân y, tôi đã nghe về Công nghệ Giáo dục (CNGD), vì một đồng nghiệp có con học ở Trường Thực nghiệm (TTN), thánh địa của phương pháp.
  • Về một hậu duệ của học giả Nguyễn Văn Vĩnh

    13/10/2009Nguyễn ThiêmĐể có bộ phim dài 4 tiếng ấy, nhóm làm phim đã quay tới 1.500 phút ở Hà Tây, Hà Nội, Hà Tĩnh, Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh, Lào và đi tới 5 thành phố ở Pháp.
  • Vũ Ngọc Phan với các giá trị văn chương-học thuật dân tộc

    09/10/2009GS Phong LêVũ Ngọc Phan mất giữa năm 1987, tức là ông vẫn chưa được hưởng một chút thư thái, an nhàn nào trong sinh hoạt vật chất vốn rất khó khăn đối với cả dân tộc chúng ta hồi ấy. Ông cũng chưa được hưởng một sự cởi mở trong sinh hoạt tinh thần để thấy giá trị nguyên vẹn về mặt khoa học của số lớn những gì ông đã viết trong Nhà văn hiện đại.
  • Hội dịch sách

    23/09/2009Nguyễn Văn VĩnhỞ thế–dan này, xem trong các nước, phàm nước nào đã gọi là nước văn–minh, là cũng có văn–chương riêng cả, tiếng nói thế nào, chữ viết như thế. Mà cái văn–minh người ta cũng ở đó mà ra, vì chữ có là ảnh tiếng nói thì mới dùng để chuyền sự hay đi trong nước ai ai đều học được cả.
  • Không chấp nhận tách mình ra khỏi dân tộc

    15/09/2009Nguyễn Văn NghiKỷ niệm sinh nhật của Nguyễn An Ninh (15.9.1900) được đánh dấu bằng một “món quà” đặc biệt, đó là tập Nguyễn An Ninh – Tác phẩm do Trung tâm Nghiên cứu Quốc học xuất bản tại Nxb Văn học, tháng 6.2009 vừa qua.
  • Học giả Nguyễn Văn Vĩnh: Ta tắm ao ta

    21/08/2009Hoàng NguyênHiếm có người tự cầm tóc mình nâng mình lên cao hơn thời đại mà mình đã sống. Nguyễn Văn Vĩnh cũng nằm trong thói thông thường này. Có điều, những việc mà ông đã làm được vì dân, vì nước, dẫu không phải lúc nào cũng "mười phân vẹn mười" nhưng rất đáng trân trọng. Ông đã tạo được những cú hích để thúc đẩy thời đại của mình tiến lên, hướng tới văn minh nhân loại mà vẫn giữ vững cốt cách nước Nam "ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn".
  • Tiếng An-nam

    20/08/2009Nguyễn Văn VĩnhLại còn một điều khẩn–yếu, là muốn cho văn quốc–ngữ thành văn–chương hay, khỏi mang tiếng nôm na mách qué, cách đặt câu, cách viết, phép chấm câu, phải dần dần đặt cho thành có lệ có phép; mà lệ phép thì phải theo ý nhiều người đã thuận, chớ đừng ai tự đắc lối của mình là phải, đem ý riêng ra sửa đổi thói quen. Phải nhớ câu: phàm ngôn–ngữ nước nào cũng vậy, dầu tài thánh trạng một người cũng chẳng làm ra được.
  • Phạm Quỳnh - Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922-1932

    08/08/2009Cái văn bản Phạm Quỳnh mấy chục năm qua đã thoát hình hài trần thế để được thoả sức yêu cái đẹp thiên giới, nơi đó không còn triết học và thực dụng, không còn lo âu và toan tính, không còn ảo tượng và vỡ mộng. Văn bản đó sẽ để lại trong lòng người những tác phẩm như thế nào đây? Điều đó hoàn toàn là của riêng bạn đọc. Mấy lời giới thiệu phiến diện này cũng chỉ là một trong vô vàn tác phẩm mà thôi.
  • Nguyễn Văn Vĩnh- Một trong những người tiên phong hoàn thiện chữ Quốc ngữ

    06/08/2009Nguyễn Lân BìnhCông bằng với Lịch sử là việc cần làm, điều này ai cũng hiểu. Tôi xin mạnh dạn nêu những hiểu biết của mình thông qua những ký ức bằng chữ của nhà Văn, nhà Báo, nhà Tình báo Cách mạng lão thành Vũ Bằng; người được Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật 2006, tác giả cuốn sách “Bốn mươi năm nói láo” do Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin ấn hành năm 2001.
  • Thiếu gạo ăn thừa giấy đốt

    04/08/2009Nguyễn Văn VĩnhThờ một ông Thánh, nghĩa là làm để cho lưu cái danh ông ấy lại, chứ không phải chiệu hồn ông ấy về, ăn miếng thịt quay, uống ba chén riệu, rồi khấn ông ấy điều gì cũng được đâu.
  • Ma to dỗ nhớn

    30/07/2009Nguyễn Văn VĩnhPhong tục An–nam mình, nhiều điều thật không có nghĩa lý gì. Như có bố mẹ lên lão, hoặc mình đi thi đỗ, cưới vợ, làm nhà, được làm quan, thăng hàm, mà ăn mừng thì còn có nhẽ; nhưng bố mẹ chết, mà mổ trâu mổ bò, mời làng mời nước, biếu–sén hàng sóm láng giềng, thì còn có nghĩa gì nữa ?
  • Dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh - chiếc cầu nối văn hóa Đông Tây

    28/07/2009Hoàng TiếnNền văn hóa phương Tây, ta chỉ mới làm quen độ hơn trăm năm nay. Những người có công bắc chiếc cầu nối để ta hiểu phần nào nền văn hóa phương Tây, cũng như để người phương Tây phần nào hiểu nền văn hóa Việt Nam, là lớp trí thức hồi đầu thế kỷ, mà ông Nguyễn Văn Vĩnh là người đáng được ghi công đầu.
  • Mối quan hệ báo chí- kinh tế: Nhìn từ lịch sử

    27/07/2009Về lịch sử báo chí buổi sơ khai, có quan điểm cho rằng, nó bắt nguồn từ nhu cầu thông tin kinh tế mà các nhà buôn thông qua một mạng lưới rất nhiều những người trong giới thuơng nhân, các nhà thám hiểm hay các tăng lữ cung cấp qua thư tín rồi tổng hợp lại thành những bản tin tức để cung cấp phục vụ việc buôn bán, tìm kiếm sản phẩm, thị trường và giao thương.
  • Sự ra đời của chữ quốc ngữ - Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh

    24/07/2009Nguyễn Đình ĐăngTôi đã vẽ bức tranh “Sự ra đời của chữ quốc ngữ- Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh” với lòng ngưỡng mộ sâu sắc đối với hai vĩ nhân nói trên của dân tộc Việt Nam - Alexandre de Rhodes và Nguyễn Văn Vĩnh.
  • Nguyễn Văn Vĩnh, người đi tìm giá trị văn hoá

    21/07/2009Nhà văn Nguyễn Quang ThânCon người suốt đời săn tìm những giá trị văn hoá đã vỡ nợ và chết như một lữ khách không nhà ở xứ người. Ông đi tìm vàng một cách vô vọng trong chuyến viễn du cuối cùng của cuộc đời 54 năm ngắn ngủi. Ông biết đâu rằng, tài năng, trí thông minh bẩm sinh và tâm huyết nâng cao văn hoá dân tộc, cả sự nghiệp của ông để lại còn quý giá hơn vàng bạc và kim cương, những thứ đã “ trói chân bó tay “ ông một đời ?
  • Duy tân

    18/07/2009Nguyễn Văn Vĩnh (Trích tạp chí Đại Nam Đăng Cổ Tùng Báo, số 812, ngày 8–8–1907)Làm người muốn ở đời phải khôn, phải xét thế lực mình mới được, xét việc gì phải xét đầu xét đuôi, rồi hãng nói, chớ đừng có nằm đáy giếng trông lên tưởng giời bằng cái vung; duy–tân không phải là cứ dận xằng dận xịt hết đổ ra lũ này lại đổ ra bọn kia. Mình tiến cứ việc mà tiến, dậy cứ việc mà dậy, không có ai nghe cũng là tại mình, chớ nhời hay mà phải nhẽ thì ai cũng phải lọt tai.
  • Nguyễn Văn Vĩnh (1882 - 1936)

    16/07/2009Nguyễn Văn Vĩnh thuộc nhóm người tân học, làm việc với người Pháp, sớm nhận thấy sự văn minh tiến bộ tây phương. Ông hiểu rằng muốn canh tân đất nước, việc giáo dục quần chúng là điều kiện quan trọng trước nhất. Để giáo dục quần chúng, sự cần thiết là phải nhờ vào chữ quốc ngữ, báo chí, và ấn phẩm...
  • Truyện ăn mày

    16/07/2009Nguyễn Văn VĩnhPhải làm thế nào cho kẻ nghèo đói khỏi phải đi lũ lượt từng nhà, nằn nì phơi bộ xương còm áo rách ra, để cho những người có lòng tâm đức trông mãi cái cực khổ, rồi hóa quen mắt đi, không biết cái gì là cái thương nữa...
  • Phạm Quỳnh: Ngọn gió Nam

    15/07/2009Đỗ Lai ThúyNam Phong (1917-1934) là một trong những tạp chí có công rất lớn trong việc cổ động cho văn học quốc ngữ, cho nền quốc học Việt Nam. Đặc biệt cho việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam trên cơ sở kết hợp, dung hòa hai nền văn chương, học thuật, tư tưởng Đông – Tây. Các biên tập viên giữ các chuyên mục của tạp chí đều là những cây bút vững vàng, sắc sảo, nhạy bén với những vấn đề văn hóa, trong đó phải kể đến ông chủ bút là Phạm Quỳnh.
  • Trương Vĩnh Ký, người mở đầu cho cuộc đối thoại Đông Tây

    14/07/2009Đỗ Lai ThúyTrong văn hóa, đối thoại không phải để giành trọn phần thắng về mình mà để nhận thức sâu thêm về mình, về người nhằm đạt tới một chân lý cao hơn cho cả hai bên. Ở Việt Nam, có thể nói, Trương Vĩnh Ký là người mở đầu cho cuộc trò chuyện Đông - Tây.
  • Phố cổ Hà Nội

    13/07/2009Nguyễn Văn VĩnhBài viết này được trích từ cuốn Lịch sử, sự thật và sử học (Tạp chí Xưa&Nay, Nhà xuất bản Trẻ, 12/1999) tập hợp một số bài viết trên tạp chí Xưa&Nay của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. Bài viết nguyên bằng tiếng Pháp đăng trên tờ Annam Nouveau số 140 ngày 2/6/1932 của nhà báo-chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh, đã được một bạn đọc dịch và gửi đến tòa soạn Xưa&Nay, góp phần giải thích về việc tìm hiểu khái niệm "Ba mươi sáu phố phường".
  • Báo Nhân văn (5 số)

    28/05/2009Trong thời gian 1956-1957, Phan Khôi cùng Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Trần Dần, Văn Cao, Phan Khôi, Thụy An, Trương Tửu... thành lập tờ Nhân Văn và có các bài phê phán giới lãnh đạo văn nghệ lúc bấy giờ. Báo Nhân Văn ra được 5 số thì bị đình bản. Phan Khôi sau đó bị cấm sáng tác cho đến khi qua đời năm 1959 tại Hà Nội.

  • Trương Vĩnh Ký (1837 - 1898)

    11/07/2009Nột nhà văn hóa sáng chói của Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX. Ông là một học giả tiên phong, chuyên tâm nghiên cứu học thuật, sáng lập nền báo chí Việt Nam và đóng vai trò khai sáng đối với văn học nước nhà...
  • Tiếng Việt - Những công lao bị quên lãng

    08/07/2009Cao Xuân HạoTrong lịch sử của ngành Việt ngữ học, ông là một trong những tác giả ít bị những định kiến "dĩ Âu vi trung" chi phối hơn cả, nhất là khi đem so với sách học tiếng Việt ngày nay. Kể cho đến bây giờ, ít có cuốn sách nào cung cấp cho ta nhiều thông tin về ngữ pháp tiếng Việt như mấy cuốn sách không lấy gì làm dày của ông. Trong mấy cuốn này không thiếu những phát hiện quan trọng mà ngày nay chẳng mấy ai nhắc đến, trong khi lẽ ra nó phải được những người đi sau tiếp thu và khai triển, đào sâu hơn nữa.
  • Phạm Quỳnh (1892 - 1945)

    29/06/2009Một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn. Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ Quốc ngữ và dùng tiếng Việt - thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp - để viết lý luận, nghiên cứu...
  • Nguyễn An Ninh – một nhà báo thần tượng

    26/06/2009Lê Minh QuốcKỷ niệm ngày Báo chí cách mạng Việt Nam và nhân sự kiện NXB Văn Học và trung tâm Nghiên cứu quốc học chuẩn bị xuất bản bộ sách Nguyễn An Ninh - tác phẩm dày 1.300 trang (ảnh), xin giới thiệu bài viết của nhà biên khảo Lê Minh Quốc về thần tượng một thời của thanh niên Việt Nam này
  • Phan Khôi (1887 - 1959)

    22/06/2009Ông thuộc số những trí thức hàng đầu có công tạo ra mặt bằng tri thức và văn hóa cho xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, nhưng khác với họ, ông thể hiện mình ở vai trò phản biện, và sự phản biện đó đem lại chiều sâu mới cho tri thức.
  • Chuyện làm báo ở Sài Gòn trước 1975

    21/06/2009Đoan Trang"Nhiều nhà báo trẻ bây giờ sính dùng tiếng Anh, tiếng Mỹ trong bài quá, mặc dù nhiều từ có tiếng Việt tương ứng. Có khi lại dùng từ nước ngoài kèm theo tiếng Việt, kiểu như: fan hâm mộ, nắp ca-pô…” - ông Y. nói. "Tôi nhớ báo chí Sài Gòn thời trước 75 không ai viết tiếng Việt theo kiểu "ba rọi" như vậy, mà phóng viên có lỡ viết thì biên tập viên cũng sẽ sửa ngay".
  • Báo chí Việt Nam “đêm trước đổi mới”

    12/06/2009Đoan TrangTin tức hết sức lành mạnh, chỉn chu, không “lá cải” giật gân, thiên về quảng bá những điển hình tiên tiến; một số bài báo nổi tiếng góp phần vào sự nghiệp đổi mới sau đó… Đó là vài đặc điểm nổi bật của báo chí Việt Nam giai đoạn từ năm 1975 tới “đêm trước đổi mới”, năm 1986.
  • Những “kỳ biến” trong làng báo đầu thế kỷ XX

    20/06/2009Trần Hòa BìnhVề cơ bản, đến những năm 30 của thế kỷ XX, các thể loại báo chí Việt Nam đã định hình khá rõ nét, có phần được chiếu theo những tiêu chí của báo chí phương Tây. Bên cạnh những thể loại cũ, một số thể loại mới xuất hiện, tạo nên những "kỳ biến" trong làng báo đầu thế kỷ XX.
  • Dũng khí công dân

    08/06/2009Nguyễn An NinhNguyễn An Ninh, nhà yêu nước vĩ đại, đồng thời là một cây bút chính luận lớn. Với một bút pháp độc đáo trầm thống, sâu sắc, châm biếm, Nguyễn An Ninh đã viết nên những kiệt tác nhỏ bằng tiếng Pháp. Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu một vài bài trong Nguyễn An Ninh - Tác phẩm sắp xuất bản.
  • Mỗi người có cách yêu nước riêng

    27/05/2009Hàm ĐanVượt qua mục đích ban đầu là bộ phim tài liệu độc lập của gia tộc, Mạn đàm về “người man di hiện đại” đã dựng chân dung một người “khổng lồ” đầu thế kỉ XX: Học giả Nguyễn Văn Vĩnh.
  • Nhãn quan văn hóa của Phạm Quỳnh, qua du ký

    28/04/2009Đặng Hoàng Oanh...một loạt tác phẩm của Phạm Quỳnh, từ Th­ượng Chi văn tập, Luận giải văn học và triết học, M­ười ngày ở Huế, Pháp du hành trình nhật kí cho đến Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922 - 1932 đã “tái xuất”, đến tay độc giả. Tuy chừng đó cũng cho thấy sự phong phú trong sự nghiệp tr­ước tác của một học giả một thời lừng lẫy và cũng một thời từng chịu nhiều tai tiếng. Đánh giá một cách công bằng và thỏa đáng về Phạm Quỳnh, công việc đó đòi hỏi nỗ lực, thái độ công tâm và khoa học của nhiều ngư­ời...
  • Lý luận phê bình văn học của Phạm Quỳnh

    21/04/2009Thạc sĩ Trần Văn ToànPhạm Quỳnh chính là tác gia lí luận và phê bình quan trọng nhất của văn học giao thời, và vì thế cũng là một trong những người mở đầu cho loại hình người viết lí luận và phê bình trong tiến trình lịch sử văn học nước nhà. Sau ông, chỉ mãi đến 1929 ta mới thấy xuất hiện Phan Khôi, Trịnh Đình Rư nhưng những cây bút thực sự chuyên sâu - chuyên nghiệp thì phải tính từ mốc 1931 với Thiếu Sơn và sau đó là một loạt những gương mặt của Lê Thanh, Trương Tửu, Thái Phỉ, Hoài Thanh, Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan... Đó là một thực tế mà độ lùi của thời gian đã giúp ta có được sự điềm tĩnh cần thiết để có được một thức nhận và biện giải thật sự khách quan.
  • Cuộc tiến hóa của tiếng nước Nam (*)

    09/04/2009Phạm Quỳnh (1)Thưa quý ngài, khi hai người không hoà thuận với nhau, các ngài bảo đó là họ không nói cùng một thứ tiếng. Chúng tôi thì nói: ngôn-ngữ-bất-đồng (không có cùng một ngôn ngữ). Đối với các cá nhân đã vậy; đối với các dân tộc càng như vậy. Để đi sâu vào tâm thức của một dân tộc, để có thể thiện cảm với nó, không gì bằng sự hiểu biết ngôn ngữ.
  • Ảnh hưởng của văn hóa phương Tây qua sự hiện diện của tờ báo

    09/04/2009Trần Văn ToànSự ra đời của báo chí, lẽ tự nhiên, làm xuất hiện một chân dung mới: ký giả, hay nhà báo. Những danh xưng này, trong ngôn ngữ đương đại thiên về ý nghĩa nghề nghiệp thuần túy nhưng ở vào thời điểm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX lại có nét nghĩa chỉ một nhóm có vai trò ưu đẳng trong xã hội (status group). Với quốc dân, họ là đại diện cho luân lý và tri thức, có chức phận dẫn dắt, hướng đạo. Trong một xã hội vốn có truyền thống trọng quan tước, ký giả thậm chí được liệt vào tầng lớp “quan lại cao cấp”.
  • Tân văn - Tân thư và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng yêu nước ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

    07/11/2006PGS, TS Lê Thanh BìnhTân thư góp phần giúp cho trí thức Việt Nam tiêu biểu thời đó học được phương pháp mà sau này người ta thường gọi là: “Tự thức tỉnh, tự phê phán" để nhìn nhận rõ các ưu khuyết, nhất là các nhược điểm trầm trọng của chính tầng lớp mình, của nhân dân mình, dân tộc mình đặng sửa chữa, khắc phục...
  • Tư tưởng triết học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

    11/08/2006Võ Minh TâmXã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX là một xã hội đầy biến động. Từ chỗ là quốc gia phong kiến tự chủ, Việt Nam lúc này trở thành một nước thuộc địa, nửa phong kiến...
  • Gì cũng cười

    11/11/2003Nguyễn Văn VĩnhDân tộc nào cũng có những thói xấu riêng. Người Việt ta có nhiều phẩm chất đẹp nhưng cũng không ít tật dở. Mời các bạn cùng xem những bài khảo luận của các học giả Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 về những tật xấu của dân tộc mình. Chỉ có điều, người Việt trẻ ngày nay hẳn sẽ khác với bà con làng xóm của anh Chí ngày xưa: “Nói vậy chắc nó trừ mình ra !”
  • xem toàn bộ