Ma to dỗ nhớn
Lời thưa của người thực hiện (Nguyenvanvinh.net): chúng tôi dựa trên bản chụp lại và cố gắng sao chép đúng với nguyên bản. Cứ theo luật lệ chính tả và văn phạm ngày nay thì bài văn có nhiều chỗ sai, nhất là ở các cặp chữ s/x, ch/tr, gi/r/d, và những chỗ chấm, phẩy và viết hoa. Không rõ những chỗ sai này do cụ Vĩnh lầm, hay do hồi đó chưa có luật lệ rõ rệt, hoặc giả cụ Vĩnh chủ trương viết theo cách phát âm của mình; vấn đề này mong được các học giả nghiên cứu làm sáng tỏ. Riêng chúng tôi khi thực hiện chỉ mong thấy sao chép vậy, vì chúng tôi quan niệm những bài viết này, ra đời cách nay trên dưới 100 năm, vào thời kỳ phôi thai của Việt ngữ, nên mang ít nhiều tính chất lịch sử. Ở trên chúng tôi nói cố gắng giữ đúng nguyên bản vì chúng tôi chỉ có bản chụp; bản chính được hình thành cách nay non một thế kỷ, vào lúc kỹ nghệ in ấn và giấy mực còn thô sơ, rồi tài liệu được lưu trữ gần một thế kỷ nên ngay bản chính cũng đã mờ nhạt; nay chúng tôi có bản chụp của bản mờ nhạt nên không tránh khỏi có những chỗ không thể nào phân biệt được chữ gì, dù đã dùng đến kính phóng đại. Trong trường hợp đó, chúng tôi chỉ còn cách dựa trên ngữ cảnh mà đoán.
Nguyễn Văn Phổ và Nguyễn Kỳ sưu tầm,Nguyễn Lân Tường đánh máy nguyên văn theo bản chụp lại.
Phong tục An–nam mình, nhiều điều thật không có nghĩa lý gì.
Như có bố mẹ lên lão, hoặc mình đi thi đỗ, cưới vợ, làm nhà, được làm quan, thăng hàm, mà ăn mừng thì còn có nhẽ; nhưng bố mẹ chết, mà mổ trâu mổ bò, mời làng mời nước, biếu–sén hàng sóm láng giềng, thì còn có nghĩa gì nữa ?
Có kẻ nói rằng: làm thế để giả nghĩa cha mẹ. Cái điều cha mẹ chết đi, hồn phách có còn mà trông thấy những sự dương–gian hay không, thì đây tôi không dám bàn, nhưng giả thử các cụ có trông thấy, thì chắc hẳn cũng lắm khi tức cười. Kià như : có người, lúc cha mẹ còn sống, coi như người ngoài, ra lườm vào nguýt, bon tren từng tí; thế mà lúc cha mẹ vừa mới nhắm mắt lại, đã bò bò, lợn lợn, cỗ cỗ, bàn bàn, bán mẫu ruộng làm ma to, cầm khu vườn lo dỗ nhớn.
Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) nổi bật với quan điểm duy tân cấp tiến. Thuộc nhóm người tân học, làm việc với người Pháp, và được sang Pháp công tác, sớm nhận thấy sự văn minh tiến bộ tây phương, ông hiểu rằng muốn canh tân đất nước, việc giáo dục quần chúng là điều kiện quan trọng trước nhất. Để giáo dục quần chúng, sự cần thiết là phải nhờ vào chữ quốc ngữ, báo chí, và ấn phẩm. Những yếu tố này ở nước ta lúc bấy giờ chưa có... >>Trang tác giả:Nguyễn Văn Vĩnh |
Tôi tưởng lúc ông–cụ bà–cụ nằm xuống mà nghĩ được rằng: “Ta đã sinh ra được con có tài có đức, cho xã–hội được nhờ; thì dù ta từ trẻ đến già, không làm nên điều gì, song đã để lại được dọt máu tốt, để chuộc lấy cái đời vô ích của ta“, thì chắc hẳn các cụ thỏa lòng hơn rằng, chết rồi có tư–văn hàng–giáp đến tế–lễ linh–đình.
Cũng có kẻ nói là nợ miệng: ăn của người thì lại phải mời người đến ăn.
Trong một đời người thiếu gì dịp tiếp khách, lại phải nhân khi bố mẹ chết mới tưởng đến ơn người cho ta ăn một bữa. Thì ra khi bố mẹ chết, tưởng đến bố mẹ ít, tưởng đến kẻ cho ăn nhiều.
Tôi tưởng làm người, thực có hiếu với cha mẹ, thì lúc cha mẹ thác đi, còn có trí nào mà nghĩ đến những điều thiệp–lịch mấy được, còn có bụng nào mà để vào những sự tiếp đãi anh em.
Vả làm ra cỗ bàn lại hóa ra mất cả lòng thành hàng sóm láng giềng, bạn-bè thân-thích. Thành ra ai cũng mang tiếng, vị có bữa cơm mấy đi đưa bà con tới mồ, chớ không phải thương vị tiếc bà con mà chịu khó nhọc đi đưa đám.
Sau nữa lại còn một nỗi : vừa mất cha mất mẹ lại còn vừa hết cơ hết nghiệp, hết tang người rồi lại đến tang của. Có đâu lại làm như thế !
Những nhẽ tôi nói đây thì ai cũng biết cả, nhưng tại làm sao xưa nay vẫn biết rằng xấu mà vẫn làm ? Ấy là vì một điều thiên hạ muốn khoe của.
Lạ quá ! Kỳ quá ! ở đời bao nhiêu lúc để hách dịch mà chẳng hách cho !
Kià như : mình cũng là người, người ta cũng là người, mà có kẻ vật mình ra, thì không thấy biết trọng thân. Để giữa khi bố chết hách mấy đời một phen, khánh gia bại sản cũng đành.
Thôi ! thế như mà, có ông quân–tử đã nói rằng : giống người không chữa được (mất 1 chữ) phải để hách.
Giả như bây giờ những người quân–tử và đàn anh trong làng nước, nghĩ ra một cách đổi tục lại, phàm ai có cha mẹ mất đi thì tục lệ phải nộp vào cho dân vài trăm quan tiền để làm tràng học, hoặc mở cơ cục gì hay, thì hàng–giáp hay là tư–văn mấy đền tế–lễ, như thế thì cái hách của đứa giại không phải chừa, mà tiền của đứa giại vất đi, dùng được làm điều tốt cho người khôn.
Các ông Cử, ông Tú bây giờ, xin đừng làm việc giời cao bể giộng vội, xin hãng cứ bàn việc ấy thế nào cho thành, thì là nước được nhờ. Thực–trí*
*Thực-trí là một trong các bút hiệu của cụ Nguyễn Văn Vĩnh.
(Trích Đại Nam Đăng Cổ Tùng Báo, số 796, ngày 18–4–1907).
Nguyễn văn Phổ, Nguyễn Kỳ sưu tầm.
Nguyễn Lân Tường đánh máy nguyên văn theo bản chụp lại.
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpTương lai trong lòng quá khứ
06/02/2009Nguyễn QuânBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà ĐoáCách đây một thế kỷ, những người khổng lồ
12/05/2009Nguyên NgọcTiền... bạc
25/06/2009Linh Linh