Kỷ niệm về thầy Nguyễn Mạnh Tường
Sau khi đi học ở Ý về (1978-1979) cùng với Văn học Việt Nam, tôi còn phải làm về Văn học Ý và thường gặp khó khăn trước các câu trích dẫn La tinh, nhất là khi dịch Thần khúc của Dante Alighieri (1265-1321). Tôi đã đi hỏi các đồng nghiệp cao tuổi nhưng vẫn không khắc phục được hoàn toàn trở ngại đó, cuối cùng tôi nghĩ đến việc cầu cứu Thầy Nguyễn Mạnh Tường. Thầy là Tiến sĩ Luật, phải nghiên cứu sâu Luật La Mã, do đó thấy phải rất giỏi tiếng La-tinh. Nhưng đến làm phiền một giáo sư - học giả như Thầy mà chỉ là để nhờ dịch mấy câu La-tinh thì e không thích hợp, thế là tôi đe đạt thêm nguyện vọng thứ hai: muốn được nghe kinh nghiệm của Thầy trong việc thâm nhập vào các nền Văn học châu Âu. Thầy vui vẻ nhận lời.
Chiều ngày 18/9/1991, tôi đến nhà Thầy ở số 34 phố Tăng Bạt Hổ, Hà Nội. Đi qua một cái sân nhỏ có nhiều bong cây, tôi đi vào phòng khách của một biệt thự cổ, toàn bàn ghế cổ sau bao “tang thương dâu bể”. Thầy đã quá già, so với hồi năm 1953, tôi học với Thầy ở Ban Sư phạm cao cấp của Trường dự bị Đại học Liên khu IV ở Thanh Hóa. Và đúng như tôi dự đoán, mấy câu La-tinh trích từ Kinh Thánh, từ các Thánh Ca đã làm tôi lúng túng, Thầy chỉ giảng khoảng 15 phút là xong. Hầu như cả buổi chiều hôm ấy Thầy nói như trút hết cả nỗi niềm, tâm sự. Sau đây tôi xin được lược ghi lại lời Thầy.
“Tôi sinh năm 1909, năm 1927 sang Pháp. Bạn bè khuyên tôi đừng lên Paris, lạnh quá, ở Montpellier, một năm có 300 ngày nắng, hợp với ta hơn. Sau hai năm tôi đỗ Cử nhân Văn khoa, với 4 chứng chỉ: Văn học Pháp, Văn học Hy Lạp, Văn học La Mã, Ngữ Pháp.
Năm 1930, tôi đỗ Cử nhân luật Sau đó xin thi Thạc sĩ. Đây là một kỳ thi tuyển, nếu đậu sẽ được bổ làm giáo sư trung học, nhưng họ không cho vì tôi không có quốc tịch Pháp. Các giáo sư bảo, vậy thì học lên để thi Tiến sĩ. Thời đó, Tiến sĩ Pháp có hai loại: Tiến sĩ đại học và Tiến sĩ quốc gia. Tiến sĩ Đại học chỉ là một danh nghĩa, chứ chưa đem lại cho mình quyền lợi gì cụ thể. Tiến sĩ quốc gia thì khó lắm, trước hết phải có bằng chuyên sâu cao đẳng, như phó Tiến sĩ Liên Xô, sau đó phải trình hai luận án, một chính, một phụ, lại phải thi vấn đáp hai ngoại ngữ Anh và Đức.
Năm 1932, tôi thi đậu Tiến sĩ Luật, một tháng sau thi đậu Tiến sĩ Văn, đều ở Đại học Montpellier, 22 tuổi rưỡi tôi đậu hai bằng Tiến sĩ là như vậy.
Về nước có hai viên mật thám, trong đó có Louis Marty, gặp và gợi ý tôi vào làm việc với Bảo Đại, cấp bậc Thượng thư. Tôi từ chối, sau đó họ gây khó khăn, ở nhà ba tháng, tôi trở lại Pháp. Năm năm trời đi du lịch và nghiên cứu các nước châu Âu: Tây Ban Nha, Ý Đại Lợi, Hy Lạp, Thồ Nhĩ Kỳ, Ai Cập. . . Trong thời gian này tôi viết bốn cuốn sách bằng tiếng Pháp:
1. Nền tảng Pháp.
2. Kinh nghiệm Địa Trung Hải.
3. Kinh nghiệm và nước mắt tuổi trẻ.
4. Du lịch và cảm xúc (Kịch).
Dụng ý của tôi là cung cấp cho công trường Việt Nam và châu Á những nguyên vật liệu xây dựng của văn minh châu Âu.
Sau 5 năm đi du lịch, năm 1936 tôi về nước được vào dạy ở Trường Bảo Hộ (Trường Bưởi). Nhà ở số 1 Mai Xuân Thưởng, trông ra Hồ Tây, chỉ cách trường 200 mét. Đây là quãng một thời gian hạnh phúc của đời tôi. Đồng nghiệp thì có Hoàng Xuân Hãn dạy Toán, Nguyễn Văn Huyên dạy Sử, Kontum dạy Vật lý. Các học trò xuất sắc, tôi còn nhớ có Lê Kim Chung sau làm ngoại giao, Lê Khắc làm ngoại thương, Nguyễn Sĩ Quốc, Tiến sĩ về Y khoa.
Năm 1940, Pháp thua trận, Nhật đưa quân vào Đông Dương, lập ra một Hội đồng, do Phạm Lê Bổng đứng đầu, vận động nông dân bán lúa, gạo cho Nhật. Họ muốn tôi tham gia nhưng tôi từ chối. Họ lại gây khó khăn, tôi nộp đơn xin từ chức, ra mở văn phòng luật sư ở phố Trần Hưng Đạo, đây là nghề tôi đã tập sự bên Pháp.
Tháng 9 năm 1945, Cách mạng thành công. Chỉ hơn một tháng sau khi đọc bản tuyên bố thành lập nước Việt Nam độc lập ở quảng trường Ba Đình, cụ Hồ ký sắc lệnh lập thêm Trường Đại học Văn Khoa, bổ sung vào hệ thống trường đã có, do Pháp lập, ông Đặng Thai Mai làm Giám đốc, tôi được cử dạy Khoa Văn chương Tây Phương.
Năm sau, cụ Hồ lại mời tôi đến giao cho một nhiệm vụ quan trọng. Người đến mời là Nguyễn Hữu Đang. Tôi biết Đang từ hồi này.
Cụ Hồ nói: Ta sẽ ký với Pháp một tạm ước, nhưng lại muốn đạt được cao hơn một tạm ước. Sẽ có hội nghị, lúc đầu ở Việt Nam (Đà Lạt), sau ở Pháp. Nhờ Ngài xây dựng cho lập trường Việt Nam để đi đấu tranh. Tôi từ chối, nói còn có nhiều người giỏi hơn tôi. Cụ Hồ khẩn khoản: Tôi đã hỏi nhiều anh em, họ đều bảo chỉ có Ngài làm được, xin Ngài về suy nghĩ và giúp cho Chính phủ. (Hồi này cụ Hồ cứ gọi tôi là Ngài !).
Đi Đà Lạt là Đoàn Liên hiệp các đảng phái. Trưởng đoàn là Nguyễn Tường Tam. Phó là Võ Nguyên Giáp và Vũ Hồng Khanh, nhưng khi họp đoàn ở Bắc Bộ phủ thì không thấy hắn đến. Không thuộc đảng phái nào thì có Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Văn Huyên và tôi.
Lúc tiễn đoàn lên đường, cụ Hồ nói to: Xin chúc anh em đi thành công, đặc biệt tôi có lời khuyên: Nội bộ đoàn kết, phải đấu tranh găng nhưng không được gãy. Hoàng Xuân Hãn có viết hồi ức về Hội nghị nhưng không nhắc lại chi tiết quan trọng này, tôi hỏi thì anh bảo quên!