Không có vùng cấm trong lĩnh vực đọc? “Ðộc thư” và giới trí thức Trung Quốc

08:21 SA @ Thứ Sáu - 15 Tháng Tám, 2014

Vào tháng 7 năm 2007, Ðộc thư tinh tuyển gồm 6 tập các bài tiểu luận [1] – đã được lên kế hoạch từ lâu - tuyển chọn từ Ðộc thư – có lẽ là tạp chí trí thức hàng đầu của Trung Quốc, cũng là tạp chí gây nhiều tranh cãi nhất, trong thập niên vừa qua – xuất hiện tại các tiệm sách. Mỉa mai thay, cũng vào thời điểm đó, hai tổng biên tập của tờ tạp chí hàng tháng này là Uông Huy và Hoàng Bình [2] , bị công ty mẹ là Nhà xuất bản SDX bãi nhiệm. Lý do chính thức cho việc bãi nhiệm này không mấy hợp lý: thoạt đầu, người ta nói là số lượng xuất bản bị giảm sút, mặc dù trong thực tế, dưới quyền của tổng biên tập Uông và Hoàng, số người đặt mua tạp chí Ðộc thư tăng vọt từ khoảng 60.000 lên đến hơn 100.000 độc giả. Nhà xuất bản SDX sau đó tuyên bố là họ chỉ thực thi chính sách của công ty, đòi hỏi tất cả các tổng biên tập đều phải làm việc toàn thời gian (full-time), chứ không phải chỉ làm thêm ngoài công việc giảng dạy ở trường đại học như trường hợp của Uông và Hoàng. Nhưng công ty SDX không giải thích được tại sao bỗng nhiên lại “nhớ ra” cái chính sách vốn tồn tại nhưng không hề được thực thi từ nhiều năm nay này.

Việc bãi nhiệm Uông và Hoàng đã gây ra một trận bút chiến lớn giữa các trí thức Trung Quốc: các cuộc tranh luận nổ ra trên không gian mạng, trên báo và các tạp chí về những đóng góp của Ðộc thư “thời [hai tổng biên tập] Uông và Hoàng”. Những người chống lại Uông và Hoàng biện luận rằng hai người này đã biến Ðộc thư từ một tạp chí “được sự công nhận của toàn bộ” giới trí thức Trung Quốc trong suốt thập niên 80 và đầu thập niên 90 thành diễn đàn cho “một nhóm tân-tả (new left)” nhỏ, từ bỏ truyền thống văn xuôi tao nhã của tờ tạp chí này, và chuyên môn hoá nó đến mức [độc giả] không đọc nổi. Những người ủng hộ Ðộc thư phản bác rằng chính sách biên tập của Uông và Hoàng thể hiện chính đường hướng phê bình mà trí thức nên đi theo trong thời đại của chuyển đổi xã hội mạnh mẽ, khi quá trình thị trường hoá và phát triển không đồng đều đã tạo ra những bất bình đẳng to lớn ngay giữa lòng sự tăng trưởng cao tốc. Bộ Ðộc thư tinh tuyển cho phép độc giả tự hình thành đánh giá của riêng mình về những đóng góp của tờ tạp chí này trong việc tìm hiểu và định giá những thay đổi đó. Tuyển tập cung cấp một cái nhìn khái quát về những mối quan tâm trí thức của Ðộc thư trong thập niên từ 1996 đến 2005, phản ánh những thay đổi lớn dưới thời của đồng tổng biên tập Uông và Hoàng. Với những độc giả bên ngoài Trung Quốc, tuyển tập này cũng cung cấp một cửa sổ hữu ích để tìm hiểu các cuộc tranh luận của trí thức Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trong giai đoạn này: tờ tạp chí đã gây ra rất nhiều cuộc thảo luận, trao đổi, cũng như nhiều cuộc luận chiến chính trị; và như tựa đề cho thấy, tuyển tập này bao gồm hầu như toàn bộ các tiểu luận quan trọng (đã đăng trên Ðộc thư trong thập niên đó – ND).


Thời kỳ đầu

Ðộc thư là tạp chí hàng tháng, ra đời vào năm 1979, với khẩu hiệu nổi tiếng “Không có vùng cấm trong lĩnh vực đọc”. Tạp chí đã xuất bản nhiều bài điểm sách, hồi ký và các tiểu luận học thuật, in những thông báo ngắn - chỉ vài trăm chữ - tới những văn bản dài cả 12.000 chữ (khoảng 7.500 chữ khi dịch sang tiếng Anh), với độ dài trung bình khoảng 4.000 ký tự (khoảng 2.500 từ). Ðầu thập niên 1980, dưới quyền của hai tổng biên tập Ni Ziming và Chen Yuan, tạp chí chủ yếu in những bài viết tao nhã của lớp học giả lớn tuổi và tiểu luận chính trị của các đảng viên có tư tưởng cởi mở. Ðộc thư không phải là diễn đàn duy nhất dành cho tranh luận của trí thức vào thời điểm đó: Nghiên cứu Lịch sử và Khoa học Xã hội Trung Quốc là hai tạp chí cũng có ảnh hưởng khá lớn trong các cuộc tranh luận về những vấn đề đương đại. Ðộc giả biết đến Ðộc thư nhất là qua [việc tạp chí này đăng] các hồi ký và chân dung trí thức, cung cấp một dạng “đền thờ danh nhân” (pantheon) mà nhờ đó, giới trí thức Trung Quốc có thể xây dựng một căn cước tập thể mới.

Bất chấp nhiều khác biệt, có một sự đồng thuận ngầm trong quan điểm của giới trí thức thời đó: họ cùng chia sẻ một tâm trạng mệt mỏi sau quá khứ cách mạng gần đây và sau khát vọng hiện đại hoá đất nước, được tóm tắt lại qua khái niệm về một thời đại “tân khai sáng”, phản ánh xu hướng nghiêng về thuyết phổ quát tự do (liberal universalism), được thể hiện qua sự kiện Quảng trường Thiên An Môn năm 1989. Xu hướng “tân khai sáng” được biểu thị qua thuyết lấy phương Tây làm trung tâm (West-centrism), dựa trên niềm tin vào một mẫu hình lịch sử tuyến tính của quá trình hiện đại hoá, mà trong đó kinh nghiệm của phương Tây được xem là những tấm gương chính. Ðiều thú vị là nhiều bài tiểu luận trên Ðộc thư vào thập niên 1980 cũng hướng về Nhật Bản: được Mỹ giúp tái kiến thiết sau năm 1945 và tránh được những chấn thương của các cuộc cách mạng chính trị, nền kinh tế Nhật Bản đã vùng dậy thành cường quốc thứ nhì trên thế giới. Niềm ngưỡng mộ dành cho Nhật Bản được củng cố bằng một sự so sánh ngầm: ở Trung Quốc, (các cuộc) cách mạng đã ngăn cản tiến trình hiện đại hoá, khiến cho đất nước này bị tụt hậu. Khi Ðảng Cộng sản Trung Quốc tự tách mình khỏi quá khứ cách mạng và đúc khuôn thành “đảng của công cuộc hiện đại hoá” sau năm 1978, nhiều trí thức cho rằng (đảng) đã quay lại đúng đường. Với Trung Quốc, nhiệm vụ cấp bách là noi theo gương của những nước phát triển và hoà nhập vào trật tự thế giới chính dòng (mainstream world order), theo sự đồng thuận thời hậu cách mạng. Tương tự như vậy, sứ mệnh vinh quang của trí thức Trung Hoa là sử dụng tiêu chí đã được mã hoá về cái hiện đại để phê bình sự phát triển, quá khứ và hiện tại của Trung Quốc.

Từ khoảng giữa năm 1985, việc giới thiệu các quan niệm và phương pháp luận Tây phương đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của Ðộc thư: lý thuyết về hiện đại hoá, ký hiệu học (semiology), hình thức học của Nga, các phân tích theo lý thuyết Foucault, các trường phái Braudel và Annales trong ngành biên sử, là những chất gây men say cho một thế hệ trí thức trẻ. Chuyển động này là một phần của làn sóng được biết đến với cái tên “cơn sốt văn hoá” của thập niên 1980, trong đó SDX đóng một vai trò tích cực; nhà xuất bản này đã in một loạt các tác phẩm dịch do Gan Yang biên tập, với đề mục, “Văn hoá: Trung Hoa và Thế giới,” nhằm mục đích giới thiệu tác phẩm của các nhà tư tưởng phương Tây một cách có hệ thống. Gan Yang khi đó là nghiên cứu sinh ở Ðại học Bắc Kinh. Một loạt ấn bản dịch thuật tương tự khác, do Jin Guantao và Bao Zunxin biên tập, cũng được Nhà Xuất bản Nhân dân Tứ Xuyên in với đề mục “Tiến vào Tương lai’. Ðộc thư đăng nhiều bài điểm sách các ấn phẩm dịch này, trong đó có tác phẩm của Nietzsch, Freud, Heidegger, Sartre và nhiều người khác. Nhưng đồng thời, nếu xem lại các số Ðộc thư vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90, độc giả hầu như sẽ chẳng hề thấy được những thay đổi đang diễn ra trong xã hội Trung Quốc bên ngoài thế giới của trí thức lúc đó: sự sự tan rã của các Công xã Nhân dân, sự trỗi dậy của các doanh nghiệp ở thị trấn và làng xã, quá trình thị trường hoá nền kinh tế, việc giải tập trung hoá (decentralization) công khố, v.v…; tạp chí Ðộc thư hoạt động như một phòng khách (salon) hay một câu lạc bộ [tách biệt với xung quanh – ND].

Ðộc thư không phải chịu chính sách siết chặt sau năm 1989 như một số tạp chí anh chị em khác, và tiếp tục là một diễn đàn cho “cơn sốt văn hoá”. Thực tế là nhiều tờ tạp chí có ảnh hưởng khác trong thập niên 1980 chịu áp lực rất nặng và mất đi phần lớn sức sống trí thức, điều này khiến cho Ðộc thư càng chiếm vị trí nổi bật hơn. Thách thức lớn hơn, nếu có, với tờ tạp chí này, chính là quá trình thương mại hoá của xã hội Trung Quốc sau năm 1992. Số độc giả của các bài viết trí thức khi đó giảm xuống, và Thẩm Xương Văn, tổng biên tập tạp chí thời kỳ 1986-1996, đã chuyển hướng sang một chính sách dân tuý hơn, chọn in các bài báo dễ đọc hơn. Nhưng từ năm 1996 trở đi, sau khi Uông Huy và Hoàng Bình được mời tham gia tạp chí – ban đầu chỉ với vị trí tạm thời – sau khi Thẩm về hưu, Ðộc thư chuyển sang hướng mang tính phê bình và học thuật hơn. Hai tổng biên tập này tăng cường các bài viết về khoa học xã hội và khuyến khích việc bàn luận công khai các vấn đề kinh tế và chính trị đương đại. Họ cũng quan tâm tới việc trao đổi với cộng đồng trí thức quốc tế hơn những tổng biên tập tiền nhiệm. Dưới quyền lãnh đạo của Uông và Hoàng, Ðộc thư trở thành một tạp chí phê bình xã hội, không hợp với một số người, nhưng rõ ràng đã đặt ra những vấn đề gây được tiếng vang rộng hơn.


Thế hệ mới

Hai học giả Uông và Hoàng đại diện cho một sự thay đổi về tính chuyên nghiệp cũng như về tính thế hệ. Trong thời kỳ 1979-1996, tổng biên tập của Ðộc thư là các chuyên gia và biên tập viên trong ngành xuất bản, những người mà sự hình thành trí thức phần lớn thuộc về các lĩnh vực văn chương, lịch sử và triết học. Uông Huy và Hoàng Bình có một nền tảng học thuật chính thức hơn. Uông sinh năm 1959, thoạt đầu được biết đến như một chuyên gia về Lỗ Tấn; ông hoàn thành nghiên cứu tiến sĩ về lịch sử văn chương Trung Quốc. Cuối thập niên 1980, ông chuyển hướng quan tâm sang lịch sử trí thức. Bài tiểu luận dài của ông, “Tư tưởng Trung Quốc đương đại và vấn đề hiện đại”, được viết vào năm 1994, nhưng mãi đến năm 1997 mới in, tạo một cú sốc trong giới trí thức Trung Quốc khi đó và gây ra nhiều cuộc tranh luận nghiêm túc, do thái độ phê bình của bài viết về tính hiện đại tư bản chủ nghĩa và do cách tiếp cận lịch sử tư tưởng (Trung Quốc) thiên về lịch sử-xã hội. [3] Tác phẩm 4 tập gần đây của ông, Sự phát triển của tư tưởng Trung Quốc hiện đại, nghiên cứu một cách có hệ thống quá trình biến đổi của lối nghĩ truyền thống trong bối cảnh xã hội hiện đại. Uông hiện đang giảng dạy tại Ðại học Thanh Hoa và là một trong những học giả nổi tiếng nhất ở Trung Quốc. Hoàng Bình sinh năm 1958 và tốt nghiệp tiến sĩ ngành xã hội học tại Ðại học Kinh tế London (the London School of Economics); ông hiện giảng dạy ở Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc. Ông tham gia ban biên tập của một số tạp chí quốc tế, bao gồm Comparative Sociology (Xã hội học So sánh), the British Journnal of Sociology (Tạp chí Xã hội học Anh quốc) và Current Sociology (Xã hội học Hiện nay); ông đã viết về sự phát triển xã hội, về tính hiện đại và toàn cầu hoá, và – trên hết - về sự phát triển nông thôn và sự cân bằng vùng miền ở Trung Quốc. Cả hai học giả này đều có nền tảng vững chắc về lý thuyết xã hội, cho phép họ đặt ra nhiều câu hỏi quan trọng về Trung Quốc đương đại. Về mặt hình thành trí thức, họ bổ sung lẫn cho nhau: Uông mạnh về văn học và lịch sử, trong khi Hoàng mạnh về khoa học xã hội thực nghiệm.

Ðiều này đại diện phần nào cho tiến trình phân hoá rộng hơn trong giới trí thức Trung Quốc vào những năm 1990. Khoa học xã hội ngày càng trở nên quan trọng trong thảo luận về những vấn đề công kể từ giữa thập niên trở đi, và Uông Huy là một trong nhiều học giả chuyển từ lĩnh vực văn học sang lịch sử trí thức và xã hội trong giai đoạn này. Nhưng đường hướng của Ðộc thư cũng phản ánh một sự chia rẽ về tư tưởng rất lớn trong lòng giới trí thức từ giữa những năm 1990, khi nhiều tác giả bắt đầu phê phán con đường phát triển của Trung Quốc. Lập trường gây tranh cãi rất lớn này mau chóng được dán nhãn “tân tả” hay “hậu hiện đại”. Cả hai nhãn đều mang nghĩa tiêu cực lớn trong ngữ cảnh này: trong suốt một thời gian dài sau thập niên 1970, việc gọi một trí thức là “tả” (thay vì “cấp tiến”) gần như một scandal, bởi phần lớn giới trí thức đã từng là nạn nhân của cánh cực-tả trong Ðảng Cộng sản Trung Quốc. Hậu hiện đại thậm chí còn có vẻ lạ lùng hơn: làm thế nào mà một trí thức lại có thể phê bình lý tưởng về hiện đại hoá trong một xã hội lạc hậu?

Thế nhưng sự phát triển của thập niên 1990 đã sản sinh ra những hệ quả xã hội mà trí thức của thập niên 80 hầu như không hình dung nổi. Tiếp sau diễn văn trong chuyến “thăm miền nam” nổi tiếng của Ðặng Tiểu Bình vào năm 1992, Ðảng Cộng sản Trung Quốc lao vào tiến trình cải cách, với công cuộc thị trường hoá, tư hữu hoá và hoà nhập vào trật tự thế giới tư bản, trong đó sự phát triển nhanh chóng của ngành sản xuất hướng về xuất khẩu đặt nền móng cho việc Trung Quốc trỗi dậy thành “công xưởng của thế giới”; cùng lúc đó, việc đấu giá những xí nghiệp quốc doanh, cộng với việc cắt giảm phúc lợi xã hội nhằm cân bằng những thâm hụt do việc giải thể kinh tế tập trung trong thập niên 1980, đã dẫn đến việc hàng triệu công nhân trong các xí nghiệp quốc doanh bị mất việc. Khi làn sóng tư hữu hoá tràn qua những cơ sở sở hữu tập thể ở các làng xã và thị trấn, lại có thêm hàng triệu nông dân thất nghiệp và phải di cư tới những thành phố ven biển để tìm việc. Sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa nông thôn và thành thị, giữa miền biển và vùng sâu vùng xa ngày càng gia tăng. Ô nhiễm ngày càng trầm trọng. Cái giá khá cao phải trả cho công cuộc phát triển trút lên đầu dân thường.

Chính những điều này đã chia rẽ sự đồng thuận tương đối đạt được vào thập niên 1980 của giới trí thức Trung Quốc. Chính phủ tiếp tục bám lấy thuyết “hiệu suất là trên hết” và cấm bất kỳ một thách thức công khai nào đối lập với chủ thuyết này. Các nhà kinh tế học chính dòng tạo thành một tầng lớp lãnh đạo bậc trung [4] quanh dự án tư hữu hoá và cắt giảm phúc lợi xã hội, và trong một thời gian dài, họ gần như độc quyền tranh luận trong giới trí thức nói riêng và trong xã hội nói chung. Bất kỳ vấn đề gì nảy sinh do việc tư hữu hoá và sự phát triển không đồng đều đều bị bác bỏ như một cơn nấc tạm thời, sẽ được giải quyết bằng việc thị trường hoá mạnh hơn nữa. Ðối với nhiều trí thức, sự phát triển nhanh chóng của thập niên 1990 khẳng định lòng tin tưởng của họ vào công cuộc hiện đại hoá: tư hữu hoá sẽ dẫn đến phát triển kinh tế; phát triển kinh tế đến lượt nó sẽ mang lại tự do chính trị; người ta cho rằng tiến trình Hayekian-Friedmanite này là trào lưu không thể cưỡng lại được của lịch sử thế giới. Nhưng những người khác lại lưu ý mọi người về “mặt tối” của mô hình phát triển Trung Quốc. Những tiếng nói mới được cất lên; quan niệm về hiện đại hoá của thập niên 1980 giờ ngày càng tỏ ra có nhiều vấn đề và nhược điểm. Những bất đồng về quan điểm nổi lên, và nền tảng trí thức vốn không vững chắc của sự đồng thuận cũ giờ bị phơi bày. Là một tạp chí trí thức hàng đầu, Ðộc thư không chỉ chứng kiến những biến chuyển này, mà còn đóng một vai trò quan trọng trong đó.

Bộ Ðộc thư tinh tuyển cung cấp cho người đọc một hồ sơ khá tốt về nhiều cuộc tranh luận đó và về những quan điểm phê phán mạnh được thể hiện qua những bài viết. Ngược lại với thập niên 1980, Ðộc thư “thời Uông và Hoàng” cũng cho người đọc thấy một bức tranh rõ nét về những phát triển hỗn loạn trong xã hội Trung Quốc qua những bài viết về các vấn đề đương đại. Ðộc thư không phải là nơi duy nhất dành cho những tranh luận như vậy: các tạp chí khác nổi lên trong thập niên vừa qua, gồm cả Thế kỷ 21, Chiến lược và Quản lý, và cả tờ Chân trời thiên tả hơn. Cả ba tạp chí này đều đăng những bài viết dài hơn Ðộc thư. Chính Uông Huy đã viết bài cho cả ba tờ này; tiểu luận nổi tiếng của ông, “Tư tưởng Trung Quốc đương đại và vấn đề hiện đại,” dài khoảng 35,000 ký tự, được in trên Chân trời. Nhưng Chân trời chuyên về văn học, không về khoa học xã hội; Chiến lược và Quản lý tập trung vào khoa học xã hội, không quan tâm đến nhân văn; Thế kỷ 21 mạnh về cả hai, nhưng xuất bản ở Hồng Kông và chỉ đến được với một thiểu số độc giả ở đại lục. Ðầu thập niên 1980, Thế kỷ 21 là tạp chí sẵn có duy nhất đối với những người trốn khỏi đại lục sau sự kiện [Thiên An Môn] 1989 và trở thành một nguồn tư liệu rất quan trọng. Tạp chí này đăng những cuộc tranh luận then chốt, chẳng hạn về đường hướng bảo thủ và cấp tiến trong tư tưởng Trung Quốc thế kỷ 20, và về khả năng của nhà nước Trung Quốc. Kể từ giữa thập niên 1990, khi báo chí trong đại lục lấy lại được sức mạnh của mình, tầm quan trọng của Thế kỷ 21 đã suy giảm. Về phần mình, Ðộc thư chiếm được một lợi thế quan trọng là xuất bản ở Bắc Kinh, và có một lịch sử quan hệ thân thiết với học giả trong nhiều ngành khác nhau. Nhưng những điều đó không phải là nguyên nhân chính mang lại tầm quan trọng của Ðộc thư trong thời kỳ này: sức mạnh thực sự của tạp chí này nằm ở việc nó phản ánh một cách có hệ thống những thay đổi đang diễn ra của thời đại.


Những chiến lược xã hội

Bộ Ðộc thư tinh tuyển 6 tập được sắp xếp theo chủ đề. Tập đầu tiên, Cải cách: Nhìn lại, Ðẩy mạnh về phía trước, tập trung vào những vấn đề kinh tế chính trị học, gồm 62 bài viết, được phân loại theo bốn tiểu đề: các vấn đề nông nghiệp, công cuộc cải cách các xí nghiệp quốc doanh, “vốn sở hữu và hiệu suất”, và sự phát triển bền vững. [5] Ðộc thư đáng được ca ngợi vì đã đăng thảo luận về những vấn đề nông nghiệp, khởi đầu một cuộc tranh luận trên toàn quốc. Vào thập niên 1990, chính phủ chủ yếu chỉ chú trọng đến cải cách ở thành thị, và ít để ý đến những vấn đề ở nông thôn. Việc Ðộc thư đăng bài đã báo động cho mọi người về tình trạng tuyệt vọng của nông dân, nông nghiệp và nông thôn, - thường được gọi là “tam nông” trong tiếng Trung. Một số người cho rằng nguồn gốc của vấn đề là hệ thống kép nông thôn/thành thị (dual system), trong đó, người nông dân bị phân biệt đối xử một cách có tổ chức; họ đề xuất cải cách hệ thống này để đảm bảo tính bình đẳng công dân, và gia tăng tiến trình đô thị hoá để chuyển cư dân nông nghiệp ra các thị trấn - về bản chất, đây là một chính sách theo định hướng thị trường. Những người khác bày tỏ mối hoài nghi sâu xa hơn về thị trường và về khả năng đô thị hoá của Trung Quốc. Wen Tiejun, trong bài “Những vấn đề ‘Tam Nông’” đăng năm 1999, chỉ ra rằng tình trạng nông nghiệp hiện thời của Trung Quốc xuất phát từ mâu thuẫn giữa dân số to lớn và nguồn tài nguyên nghèo nàn của nước này, và phân tích những thay đổi chính về mặt tổ chức ở nông thôn trong thế kỷ vừa qua. Xem xét từ quan điểm này, chính sách của nhà nước trong việc đẩy mạnh đô thị hoá và thị trường hoá có nguy cơ dẫn đến một “quá trình Mỹ-Latin hoá,” với những đặc điểm như tình trạng nghèo đói ở thành thị, bạo lực và bất ổn chính trị. Rồi Wen Tiejun chuyển từ những vấn đề này sang việc xem xét con đường phát triển tổng thể của Trung Quốc. Các tác giả khác có thể không chia sẻ với ông quan điểm này, nhưng họ cũng quan ngại về nhân tố rủi ro cao của thị trường có thể làm cho hoàn cảnh của người nông dân thêm trầm trọng; tất cả các tác giả đều nắm vững tình hình.

Tương tự, về đề tài cải cách các xí nghiệp quốc hữu: nhiều tác giả trên Ðộc thư nghi ngại về một chính sách tư hữu hoá thô bạo và chỉ ra rằng đổ lỗi hiệu suất thấp của SOES (Hệ thống giao dịch lệnh nhỏ) cho mỗi công hữu thôi là sai, vì thực hành quản lý cũng rất quan trọng. Việc tư hữu hoá mạnh thường gây ra tham nhũng và dẫn đến tình trạng ăn cắp tài sản công thực sự; trong những trường hợp này, việc giới thiệu hệ thống cổ phần không phải lúc nào cũng cải thiện sản lượng. Một loạt bài phản bác thuyết “hiệu suất là trên hết”, và biện luận rằng thuyết này đã chứng tỏ là một sức mạnh tự huỷ hoại. Câu hỏi “liệu kinh tế có nên bàn luận đến đạo đức không?” đã gây ra một cuộc tranh luận gay gắt về chính bản chất của kinh tế, trong đó cả hai phía (của cuộc tranh cãi) đều kêu gọi (đối phương) đọc lại cuốn Wealth of Nations and Theory of Moral Sentiments của Adam Smith. Vai trò của chính các chuyên gia kinh tế cũng bị xem xét kỹ: Tính thẩm quyền của họ bị đặt thành vấn đề trong bài báo “Các lý thuyết kinh tế và nghệ thuật giết rồng” của He Qinglian in năm 1996. He Qinglian là một nhà báo cấp tiến. Tác phẩm nổi tiếng của bà, Cái bẫy của hiện đại hoá, bàn về những bất bình đẳng xã hội trong mô hình phát triển của Trung Quốc. Bài báo này gây ra phản ứng dữ dội cho một số kinh tế gia, và các bài phản bác của họ cũng được in trong tập này. Ðây là một cuộc tranh luận khác mà Ðộc thư đáng tự hào: nó là cuộc tranh luận sớm nhất về đề tài này ở Trung Quốc, và là lần đầu tiên mà vị trí tri thức độc tôn của các chuyên gia kinh tế bị đặt thành vấn đề. Thậm chí ngay cả khi quan điểm của các nhà kinh tế ấy cũng được thể hiện trong tập sách này, thì bản thân chương trình nghị sự - sự bất bình đẳng xã hội, đạo đức của việc làm giàu tư nhân khổng lồ - cũng đặt ra thách thức với họ (các nhà kinh tế).

Tập sách thứ hai, Tái dựng hình ảnh của chúng ta trên thế giới, thể hiện phản ứng của Ðộc thư với trật tự quốc tế đang thay đổi, cả về chính trị và kinh tế. [6] Cuộc chiến ở Nam Tư, việc Mỹ ném bom sứ quán Trung Quốc ở Belgrade, việc Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương Mại Thế giới, sự kiện 9-11, cuộc xâm lược Afghanistan và Iraq tất yếu dẫn đến việc nhiều trí thức phải xem xét lại bức tranh màu hồng về trật tự thế giới do phương Tây lãnh đạo mà họ ôm ấp từ thập niên 1980. Bài “Khủng bố quốc tế và chính trị quốc tế” của Shu Chi, in tháng 11 năm 2001, phân tích là phong trào Hồi giáo chính thống (Islamic fundamentalism) bắt nguồn từ Chiến tranh Lạnh; trong khi đó, nhà thơ Huang Canran của Hồng Kông luận bàn về phản ứng của giới trí thức trước cuộc chiến Iraq và với chủ nghĩa tân bảo thủ Tây phương trong bài viết “Ðược đế chế, nhưng mất nền dân chủ”. Cuộc xâm lược Iraq đã gây ra một cuộc tranh luận gay gắt ở Trung Quốc, trong đó một số thành phần hữu phái tuyên bố ủng hộ cuộc chiến, còn phe tả thì phản đối.

Nhiều bài viết trong tập Hai – có 41 bài tất cả - đặt vấn đề với con đường hiện thời của toàn cầu hoá và thăm dò những khả năng lựa chọn khác, công bằng hơn. Tập Hai cũng phản ánh quan hệ tương tác ngày càng tăng giữa Ðộc thư và các trí thức khác trên thế giới: có bài đóng góp của Benedict Anderson, Chomsky, Amy Chua, Derrida, J.K. Galbraith, Habermas, Thomas Pogge và Vandana Shiva. Cũng có một cuộc tranh luận nóng bỏng về cuộc Khủng hoảng Tài chính Á châu năm 1997. Xu Baoqiang, một tác giả ở Hồng Kông, trong bài “Ðọc lại Braudel trong Cơn bão Khủng hoảng Tài chính Á châu” đăng năm 1998, biện luận rằng sự sụp đổ tài chính đã bộc lộ ra nhược điểm của nền kinh tế tân cổ điển, lý thuyết nhà nước phát triển, và những mô hình “chủ nghĩa tư bản [theo kiểu] Nho giáo”; cuộc khủng hoảng này cần được đặt trong bối cảnh “trọng tâm” của chủ nghĩa tư bản thế giới nghiêng về phía đông, theo lý thuyết phân tích kết cấu của Braudel. Trong “Từ Xã hội mở tới cuộc khủng hoảng toàn cầu của chủ nghĩa tư bản,” Luo Yongshen, cũng từ Hồng Kông, lưu ý độc giả tới những phê bình của George Soros về thị trường cực đoan. Bài “Bóng ma phía sau điều kỳ diệu” của Benedict Anderson xem xét cuộc khủng hoảng từ góc cạnh lịch sử. [7] Khi bốn điều kiện địa-chính trị [tạo thuận lợi] cho điều kỳ diệu kinh tế Ðông Nam Á - viện trợ của Mỹ, đầu tư của Nhật, sự tự cô lập của Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc và việc người Hoa di cư tới các nước Ðông Nam Á - dần dần biến mất, trong khi đó, lại không có cuộc cải cách có hiệu quả nào khác, điều kỳ diệu cuối cùng đã sụp đổ.

Những phân tích này mới mẻ đối với phần lớn trí thức Trung Quốc tại đại lục; họ vẫn chưa quen với khái niệm khủng hoảng tư bản hay những cuộc tranh luận xung quanh việc nới lỏng kiểm soát dòng lưu thông vốn; [cuộc khủng hoảng] năm 1997 cung cấp rất nhiều điều đáng suy ngẫm. Bài “Thị trường có chế định” của Jiao Wenfeng năm 2002, trích dẫn công trình của Polanyi và Braudel, biện luận rằng nền kinh tế thị trường tiền tư bản gắn chặt với xã hội địa phương, và vạch ra vai trò của nhà nước trong việc phá bỏ rào cản giữa các thị trường địa phương. “Thị trường có chế định” là thành phẩm cuối trong một quá trình chính trị-xã hội lâu dài. Những cuộc tranh luận này là phản ứng ngầm với học thuyết của Hayek (Hayekian doctrine) về một “trật tự tự phát”. Mục đích chung của tập sách này nhằm nhấn mạnh rằng thị trường không độc lập, mà vận hành trong các bối cảnh văn hoá, xã hội và chính trị đặc thù. Trật tự kinh tế thế giới không thể tách biệt khỏi chính trị thế giới. Một số bài viết chỉ ra rằng tư tưởng mậu dịch tự do che đậy đằng sau nó sự thực lịch sử là (những người đề xướng) chủ thuyết này lên nắm quyền nhờ chế độ bảo hộ và cướp bóc thuộc địa. Những người khác cho rằng con đường toàn cầu hoá hiện thời không chỉ dẫn đến việc tăng thêm ngăn cách giữa giàu và nghèo, mà còn đào sâu thêm những xung đột quốc nội về chủng tộc hoặc xã hội, như Amy Chua đã chứng minh trong cuốn The World on Fire (2004). Vấn đề chủ nghĩa khủng bố toàn cầu được xem xét dưới ánh sáng tương tự: một số đông dân chúng bị áp bức, những người hứng chịu hậu quả của việc phát triển không đồng đều, đã trở thành nguồn nuôi dưỡng chủ nghĩa quá khích. Nhìn chung, những cuộc tranh luận này đưa ra một bức tranh ảm đạm về trật tự kinh tế-chính trị thế giới; tuy vậy, ngụ ý của các bài viết này không nhằm quay trở lại với chủ nghĩa tách biệt, mà kêu gọi việc chuyển con đường toàn cầu hoá sang một hướng bình đẳng hơn.

Những nỗ lực của Ðộc thư trong việc tạo lại một chiều kích châu Á trong thế giới quan của trí thức Trung Quốc đáng được chú ý đặc biệt. Châu Á luôn hiện diện với các nhà cách mạng Trung Quốc, dù thuộc phe quốc gia hay cộng sản, trong nửa đầu thế kỷ 20, nhưng đến thập niên 1980 thì [sự hiện diện này] biến mất; đối với phần lớn trí thức của thập niên 90, thế giới về bản chất có nghĩa là Trung Quốc và phương Tây, trong đó hình ảnh của phương Tây lúc thì là đế quốc bóc lột, lúc lại là kiểu mẫu của nền văn minh hiện đại. Nước Á châu duy nhất thường được đề cập đến là Nhật Bản, và thường chỉ được đề cao do thành công về kinh tế. Hai tổng biên tập Uông và Hoàng đã thay đổi tình hình này. 30 bài viết trên Ðộc thư (dài khoảng 350 trang) in trong Tập Bốn với tựa Bệnh lý học châu Á bao gồm lịch sử quấn bện giữa Trung Quốc và Nhật Bản, tình trạng nan giải của ngành biên sử Ðông Á, vấn đề Triều Tiên, cái gọi là “những giá trị châu Á”, căn cước văn hoá và chính trị của Hoa kiều, “subaltern studies” và một số đề tài khác. [8] Các tác giả - trong số đó có Sanjay Subrahmanyam, Chalmers Johnson, Samir Amin, Arundhati Roy, Partha Chatterjee, Muto Ichiyo, Mizoguchi Yuzo, Koyasu Nobukuni, Kojima Kiyoshi, Baik Young-Seo, Lee Nam Ju, Chen Lijuan, Wang Gengwu và Ma Yiren - từ Trung Quốc, Nhật Bản, Nam Hàn, Ấn Ðộ, Singapore, Malaysia, Mỹ và Ai Cập; bốn tác giả người Ðài Loan viết về lịch sử đảo quốc trong thời gian gần đây. Phạm vi tác giả rộng lớn này cho thấy rõ mục đích của hai tổng biên tập: không chỉ đơn giản là tái tạo chân trời “châu Á” cho giới trí thức Trung Quốc, mà còn nhằm xây dựng Ðộc thư thành một diễn đàn cho việc thảo luận quốc tế về các vấn đề châu Á – bao gồm cả tính mơ hồ và tính mâu thuẫn trong bản thân khái niệm châu Á. Như Uông Huy đã tuyên bố trên tờ Le Monde Diplomatique:

“Khái niệm [châu Á] đồng lúc mang tính thực dân chủ nghĩa và chống thực dân, bảo thủ và cách mạng, quốc gia và quốc tế (cộng sản); nó xuất phát từ châu Âu và định hình sự tự diễn giải của châu Âu; nó có quan hệ mật thiết với vấn đề quốc gia-dân tộc (nation-state) và chồng chéo với quan niệm về đế quốc; nó là một phạm trù địa lý được thiết lập trong các mối quan hệ địa chính trị.” [9]

Ðiểm tham chiếu ngầm của Bệnh lý học châu Á là sự chuyển tiếp của châu Âu từ các quốc gia-dân tộc xung đột nhau thành một liên minh chính trị và kinh tế. Trong khi [khái niệm] châu Âu với tư cách như một căn cước đã đạt được một số thực chất, thì “châu Á” vẫn là một khái niệm còn khá mơ hồ. Hai tổng biên tập có xu hướng cho rằng mặc dù một “Liên minh châu Á” với thực chất kinh tế và chính trị còn là một viễn cảnh, vẫn có thể hình dung ra một cộng đồng trí thức dựa trên các mạng lưới trí thức xuyên quốc gia. Nỗ lực của Ðộc thư ít nhất cũng khuyến khích sự hiểu biết qua lại giữa các nhà tư tưởng Trung Quốc, Nhật Bản và Triều Tiên. Chẳng hạn, nhiều trí thức Trung Quốc đã nhận thức được tầm quan trọng của Trường [phái] Kyoto và đã bắt đầu hưởng ứng. Học giả Hàn Quốc Wook-yon Lee và học giả người Nhật Yaoichi Momori công khai bày tỏ niềm tiếc nhớ của họ khi Uông và Hoàng bị mất chức tổng biên tập Ðộc thư. Cả hai đều ca ngợi đóng góp của tạp chí này cho cuộc đối thoại trí thức ở Ðông Á trong thập kỷ vừa qua.

[1] Dushu Jing Xuan (Ðộc thư tinh tuyển), 1996-2005, Nhà xuất bản SDX, Bắc Kinh, 2007: 6 tập.
[2] Trong quá trình dịch, tôi có tra cứu được tên một số tác giả, ấn phẩm… bằng tiếng Hán. Những tên không tìm được, tôi giữ nguyên phiên âm tiếng Anh – ND.
[3]Uông Huy, “Hoàn cảnh tư tưởng Trung Quốc đương đại và vấn đề tính hiện đại” (“Dangdai Zhongguo Sixiang Jingkuang uy Xiandaixing Wenti” trong Tianya [Chân trời], số 5, 1997. Muốn đọc bản dịch tiếng Anh, xem Wang Hui, “Contemporary Chinese Thought and the Question of Modernity” trong Social Text, số 55, 1998, trang 9-44.
[4] Nguyên văn “priesthood”: một lớp thầy tu – ND.
[5] Dushu Jing Xuan, vol. i: Gaige: Fansi yu Tuijin, 547 trang.
[6]Dushu Jing Xuan, vol. ii, Chonggou Women de Shijie Tujing, 430 trang.
[7] Bản tiếng Anh “From Miracle to Crash” đăng trên London Review of Books, 16 April 1998.
[8]Dushu Jing Xuan, vol. iv, Yazhou de Bingli, 350 trang.
[9] Wang Hui, “An Asia that isn’t the East”, Le Monde Diplomatique, 27 February 2005.


Viễn kiến và ký ức

Những bài viết về nhiều mặt văn hoá được tuyển chọn trong tập Ba, Một cái nhìn thu hút - gồm khoảng 41 bài viết về sân khấu, mỹ thuật, kiến trúc, phim ảnh và âm nhạc. [10] Tựa đề này xuất phát từ bài viết của Zhang Chengzhi, một người Trung Quốc theo đạo Hồi, phê bình gay gắt những hoạt động của National Geographic ở Afghanistan. Năm 2002, tạp chí này uỷ thác cho một chương trình tìm kiếm một phụ nữ người Afghanistan có đôi mắt xanh; ảnh của cô xuất hiện trên trang bìa National Geographic mười sáu năm trước, khi đất nước cô đang là chiến trường cho cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai siêu cường. Họ tìm thấy cô, giờ là một phụ nữ trung niên, và chụp một loạt ảnh mới. Zhang biện luận là cái nhìn của cô, trong đó bộc lộ sự pha trộn giữa nỗi sợ hãi, buồn thương và nghi kỵ, cưỡng lại quyền lực diễn giải (interpretative power) của những kẻ xâm lược đế quốc, không chỉ gồm lính Mỹ, mà còn cả các phóng viên nhiếp ảnh. Ví dụ này có thể đại diện cho đường hướng phê phán chung của các bài viết này: mục đích là để diễn giải “cái nhìn thu hút” đã bị nền văn hoá thống trị che phủ. Mặc dù các tiểu luận viết về các thể loại và các hình thức nghệ thuật khác nhau, chúng cùng chia sẻ một viễn cảnh: hình ảnh, hình dáng và nhịp điệu không chỉ đơn giản là chuyên chở giá trị thẩm mỹ, mà còn có thể phơi bày những mối quan hệ xã hội trong những bối cảnh lịch sử đặc thù. Các tác giả của Ðộc thư đặt vấn đề: ai đang nói, nói thế nào, và về cái gì; ai đang nghe hay đang theo dõi? Câu hỏi của họ làm sáng tỏ những giả định, những sự kìm nén hoặc nổi loạn đằng sau các tác phẩm nghhệ thuật. Họ bàn luận về phong trào phim tài liệu mới ở Trung Hoa, về kiến trúc Liên Xô, về thiết kế của Bauhaus, về điêu khắc trong thời kỳ cách mạng, về bộ phim Không thiếu một của Trương Nghệ Mưu, về Thế giới của Giả Chương Kha, về phim Ðài Loan đương đại, về âm nhạc Trung Hoa trong Cách mạng Văn hoá và đương đại. Một ví dụ tốt là bài viết của Lü Xinyu năm 2004, phê bình West of the Tracks (Phía Tây đường xe lửa), một bộ phim tài liệu đầy tính sử thi về sự suy thoái của nền công nghiệp nặng ở miền Tây bắc Trung Quốc. [11] Bắt đầu bằng việc mô tả sinh động một số đoạn then chốt trong phim và phân tích nghệ thuật kể của thể loại phim tài liệu, Lü điểm lại toàn bộ lịch sử ý thức giai cấp công nhân Trung Hoa từ khi mới nổi lên cho đến khi lụi tàn. Bằng việc phê phán chủ nghĩa Marx chính thống, bà nhấn mạnh tầm quan trọng của liên minh công nông: trong một đất nước nửa thuộc địa như Trung Hoa, nông dân là chủ lực của cách mạng; thế hệ công nhân ngành công nghiệp nặng đầu tiên (“giai cấp lãnh đạo”) cũng xuất phát từ nguồn gốc nông dân. Ngày nay, bi kịch là cả công nhân và nông dân đều bị cho ra rìa; Lü hàm ý là nếu muốn được giải phóng, cần có một liên minh giữa hai giai cấp này. Lý luận của bà được minh hoạ bằng việc phân tích sâu bộ phim tài liệu. Không phải tất cả mọi tác giả đều đồng ý với quan điểm cấp tiến của Lü; nhiều người chia sẻ lý thuyết tiếp cận của các đồng nghiệp Tây phương, bao gồm lý thuyết hậu thực dân, nữ quyền luận và lý luận của Edward Said phê phán phương đông học. Các học thuyết này cũng không phải vừa mới được du nhập và Trung Hoa: Những cuộc gặp gỡ đầu tiên của Ðộc thư với (lý thuyết của) Foucault diễn ra từ giữa thập niên 1980. Nhưng vào thời điểm ấy, việc đó mới chỉ là giới thiệu những tư tưởng mới. Một cái nhìn thu hút cho ta thấy những lý thuyết này giờ đây đã được giới trí thức Trung Hoa đồng hoá tới mức độ nào.


Ðền thờ các danh nhân

Chính tập thứ năm của tuyển tập, Không chỉ để kỷ niệm, đã bảo tồn tốt nhất tính liên tục với Ðộc thư cũ. [12] Nó tiếp nối truyền thống nổi tiếng của tạp chí này là đăng hồi ký, tiểu sử và chân dung của các học giả và trí thức, trong số đó có Lương Khải Siêu (1873-1929), một trong những nhà tư tưởng hàng đầu của phong trào Cải cách Bách nhật năm 1898; nhà giáo dục Thái Nguyên Bồi (1868-1940); Trần Ðộc Tú (1879-1942), sáng lập viên của Ðảng Cộng sản Trung Quốc, đồng thời là biên tập của tờ tạp chí Tân Thanh niên; nhà Nho học Cô Hồng Minh (1857-1928); nhà nghiên cứu lịch sử Trung Hoa cổ đại Trần Dần Khác (1890-1940); nhà biên sử Tiễn Bá Tán (1898-1968); triết gia Phùng Hữu Lan (1895-1990) và nhà văn Vương Tiểu Ba (1952-1997). Trong tập này cũng có một cuộc thảo luận hữu ích của cộng đồng trí thức tại Southwestern United University (Ðại học Liên hiệp Tây Nam) thời điểm 1938-1946, khi ba trường đại học lớn ở miền bắc (Trung Quốc) phải tản cư để tránh cuộc bao vây của quân đội Nhật.

Mặc dù vậy, điều đáng lạ là hai nhà tư tưởng lớn của Trung Quốc nửa đầu thế kỷ 20 là Lỗ Tấn (1881-1936) và Hồ Thích (1891-1962) đều vắng mặt trong tập sách, bất chấp thực tế là Ðộc thư đã từng đăng khá nhiều bài viết về họ trong giai đoạn này. Ông Wu Bin, người biên tập cuốn sách, không đưa ra lời giải thích nào. (Cần lưu ý là mặc dù Uông Huy và Hoàng Bình là chủ biên bộ Ðộc thư tinh tuyển, có một số tập do các biên tập viên khác chịu trách nhiệm; Wu Bin, người phụ trách tập Không chỉ để kỷ niệm, trở thành tổng biên tập của Ðộc thư sau khi Uông và Hoàng bị bãi nhiệm.) Sự im lặng (không có bài về Lỗ Tấn và Hồ Thích) này khá kỳ lạ, nhưng không hẳn hoàn toàn không thể hiểu nổi. Trong xã hội Trung Quốc đương đại, Lỗ Tấn là anh hùng của giới trí thức cánh tả, còn cánh hữu thì đề cao Hồ Thích; nghiên cứu về cả hai nhà tư tưởng này đều rất phức tạp và tinh tế. Nếu tập sách bao gồm cả (những bài viết về) Hồ Thích và Lỗ Tấn, những độc giả nhạy cảm hẳn sẽ tính toán mức độ cân nhắc được chia cho mỗi vị như thế nào. Sẽ không dễ dàng nói hết được tầm quan trọng lịch sử của hai nhân vật phức tạp đến như vậy chỉ vẻn vẹn trong một bài tiểu luận mà không gây ra những sự bất đồng gay gắt về chính trị hay học thuật; vì vậy, có thể việc không đăng lại những bài viết về họ thì an toàn hơn.

Ðộc thư bắt đầu quan tâm đến việc thuật lại cuộc đời của những trí thức (quan trọng – ND) từ cuối thập niên 1970. Vào thời điểm đó, khi kinh nghiệm về cuộc Cách mạng Văn hoá vẫn còn đang tươi rói, những chân dung như vậy thường nhuốm màu ký ức của chấn thương chính trị và bộc lộ niềm khát khao cho một không gian cá nhân tự trị. Chúng thường do các nhà thơ, học giả văn chương và các trí thức nổi tiếng trong Ðảng Cộng sản Trung Quốc viết, và thường đạt tới một chuẩn mực rất cao. Ðộc thư trở nên nổi tiếng với thể loại này vào thập niên 1980; không có một tạp chí nào khác đăng bài ở tầm mức có thể so sánh được. Loạt bài này đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành ý thức tập thể của giới trí thức mới.

Trong thập niên 1996-2005, thể loại tiểu sử vẫn là một phần quan trọng của tạp chí, nhưng không còn nổi bật như trước nữa. Một lý do quan trọng cho điều này là những thay đổi xã hội rộng lớn hơn đã diễn ra kể từ những năm 1980. Giới trí thức, từng là một bộ phận dễ bị công kích trong giai cấp công nhân xã hội chủ nghĩa, vượt lên chiếm một vị trí cao trong hệ thống cấp bậc của xã hội hậu chủ nghĩa xã hội; những chấn thương thời cách mạng bị bỏ lại phía sau. Ðây là nền tảng mà độc giả cần nhớ khi đọc tập sách, vì nó không trực tiếp phản ánh những nét thay đổi này. Các bài tiểu luận vẫn được viết bằng lối văn tao nhã, và trong hầu hết các trường hợp, tác giả hết sức thông cảm với các nhà tư tưởng mà họ viết bài tưởng niệm: các đánh giá mang tính phê phán khá hiếm. Thể loại này vẫn được dùng để tạo ra một “ngôi đền danh nhân” trí thức, một bảo tàng của các kiểu mẫu để (trí thức) đương đại có thể so sánh, đánh giá hoặc khẳng định căn cước và cam kết (dấn thân cho một lý tưởng nào đó - ND).


Hội thoại

Tập cuối, Cùng với Ðộc thư, đăng lại những cuộc tranh luận quan trọng nhất trên tạp chí này trong thập niên vừa qua, [13] bao gồm một diện rộng về mặt đề tài: khảo cổ học và ngành biên sử Trung Hoa, hình ảnh nông thôn Trung Quốc đương đại, toàn cầu hoá, luật pháp, cải cách hệ thống đại học, nữ quyền luận, môi trường, chiến tranh và chủ nghĩa khủng bố, v.v… Một số là văn bản ghi lại các hội nghị chuyên đề do Ðộc thư tổ chức; những bài khác là tập hợp nhiều tiểu luận về cùng đề tài. Tập Sáu cho độc giả thấy được phạm vi mà Ðộc thư đề ra chương trình nghị sự tranh luận trong thời đại của những thay đổi mạnh mẽ này. Phần lớn các chủ đề mang tính chuyên môn khá cao, nhưng chúng đều chia sẻ một đường hướng chung: giải cấu trúc hình ảnh được mã hoá của cái hiện đại (modernity) vốn được xây dựng trên một lịch sử tuyến tính và lấy phương Tây làm trung tâm; để tìm hiểu động lực của lịch sử Trung Hoa và các thực hành đương đại; và để thăm do khả năng của dân chủ, bình đẳng và công lý trong bối cảnh hiện thời.

Tập này bao gồm sự can thiệp quan trọng của Ðộc thư trong những cuộc luận chiến xung quanh những đề xuất cải cách hướng về thị trường của Ðại học Bắc Kinh. Bản kế hoạch do một nhà kinh tế học thảo ra vào năm 2003 nhằm giới thiệu nguyên tắc cạnh tranh, khuyến khích các phân khoa thuê giảng viên từ nước ngoài thay cho các học giả trong nước, và định lượng hệ thống đánh giá (chất lượng) để sao chép lại những quy tắc tiêu chuẩn về học thuật của Mỹ. Kế hoạch này bị học giả các ngành khoa học xã hội và nhân văn phê phán kịch liệt. Hội thảo chuyên đề về dự án này do Ðộc thư tổ chức đã nâng cuộc tranh luận lên một tầm mức mới. Tại hội thảo, các học giả hàng đầu của Bắc Kinh và những nơi khác đã biện luận là đại học cần là một thể chế cho việc theo đuổi tự do và sáng tạo tri thức, và đặt vấn đề với sự thiên vị (thị trường) của các nhà kinh tế học đằng sau dự thảo nói trên.

Vào năm 2005, Ðộc thư tổ chức một hội thảo chuyên đề khác về sự khủng hoảng của ngành y học cổ truyền Trung Hoa trong hệ thống y tế quốc gia. Hội thảo này có sự tham gia của các học giả và các thầy thuốc nổi tiếng trong ngành y học cổ truyền, trong đó có Lu Guangxin, thuộc Viện Hàn lâm Y học Trung Hoa (Trung Quốc Trung Y Khoa học Viện); Cao Dongyi, thuộc Viện Trung y Hà Bắc; và các nhà khoa học khác, trong đó có nhà hoá học Zhu Qingshi, thuộc Ðại học Khoa học và Công nghệ Trung Quốc; rồi các học giả ngành nhân văn chẳng hạn như nhà lý luận về pháp luật Deng Zhenglai. Cuộc thảo luận bao gồm cả những vấn đề về chính sách và những nền tảng khác biệt về nhận thức luận và phương pháp luận giữa Tây y và Trung y, bảo vệ những chỉ trích cho rằng Trung y “phản khoa học”. Họ cũng biện luận là thuốc cổ truyền Trung Hoa, rẻ hơn so với thuốc Tây rất nhiều, có thể giúp phát triển cho bảo hiểm của hệ thống y tế quốc gia. Vấn đề ngầm ẩn trong cuộc tranh luận này là lịch sử sóng gió mới đây của Trung Quốc. Trong Cách mạng Văn hoá, Mao Trạch Ðông khuyến khích y học cổ truyền và sử dụng nó để xây dựng một hệ thống chăm sóc sức khoẻ khá thành công. Nhưng sau hai thập niên cải cách kinh tế (theo hướng) thị trường, giá cả dịch vụ chăm sóc y tế trở nên quá đắt đỏ so với túi tiền của dân thường. Mặc dù các nhà diễn thuyết không đưa ra sự so sánh trực tiếp như vậy, độc giả cân nhắc những ẩn ý của cuộc tranh luận và tự đánh giá tầm quan trọng của di sản xã hội chủ nghĩa Trung Quốc. Vai trò của Ðộc thư, một lần nữa, là cung cấp kiến thức chuyên môn và nhận xét phê bình trí thức ở tầm cao cho tranh luận công. Cùng với Ðộc thư cũng lại bao gồm cả bài viết của các học giả quốc tế như Habermas, Derrida, Perry Anderson, Mark Selden, Michael Hardt và Antonio Negri.

Không phải tất cả các tác giả nước ngoài có bài trên Ðộc thư thời hai tổng biên tập Uông và Hoàng đều được chọn in lại trong 6 tập này, chẳng hạn như bài viết của Alasdair MacIntyre và Immanuel Wallerstein. Nguyên nhân có thể vì những đề tài được chọn không bao gồm các cuộc tranh luận về đạo đức và cộng đồng, hay về lịch sử khoa học xã hội; có thể các nhà biên tập thấy rằng cách đặt và giải quyết các vấn đề này của Ðộc thư chưa đủ chín chắn để có thể đưa vào tuyển tập. Tuy nhiên, một số đề tài quan trọng được thảo luận trên Ðộc thư trong thập niên này rõ ràng bị gạt ra vì những lý do khác, chẳng hạn như cuộc tranh cãi gây nhiều ảnh hưởng về Che Guevara. Vào năm 1998, tạp chí đăng bài tưởng niệm Che của Suo Sa, một nhà Mỹ-Latin học. Bài viết này đã gợi cảm hứng trực tiếp cho vở kịch do Huang Jisu và Zhang Guangtian dựng, trình diễn vào năm 2000. Cả bài viết của Suo Sa và vở kịch về Che Guevara đã gây ra một cuộc tranh luận căng thẳng trong giới trí thức Trung Hoa: một số người coi đây là việc gợi lại ngược đời về quá khứ cách mạng mà Trung Hoa đương đại đã chối bỏ một cách đúng đắn; những người khác lại coi đó là cách tái-chứng minh tính chính đáng cuộc tranh đấu cho giải phóng. Ðộc thư đăng một số bài viết có quan điểm khác nhau, tranh luận về ẩn ý của biểu tượng chính trị này trong bối cảnh hiện thời. Nếu Ðộc thư tinh tuyển chọn cả những bài đó và đăng trong tập Tái dựng lại hình ảnh của chúng ta trên thế giới, hoặc tập Một cái nhìn thu hút, thì hẳn sẽ rất hữu ích cho độc giả. Các bài viết đó cung cấp một bức tranh rõ nét về việc trí thức Trung Hoa xem xét di sản cách mạng của đất nước và việc đương đại tách khỏi quá khứ ấy như thế nào. Các nhà biên tập có thể có những quan ngại riêng của họ, dù về mặt chính trị hay kỹ thuật, về chủ đề này; nhưng từ quan điểm của độc giả, những bài viết đó chắc chắn sẽ làm tăng giá trị toàn bộ tuyển tập.

Những bài viết nhạy cảm về chính trị khác cũng bị loại bỏ, trong đó phải kể đến bài “Viết sử: Làng Gao” của nhà xã hội học Gao Mobo, gây nhiều tranh cãi nhất trong thời điểm này. Bài viết phân tích ảnh hưởng của Cách mạng Văn hoá tới sự phát triển của làng này và đặt ra câu hỏi: ai là người chi phố tường thuật về Cách mạng Văn hoá? Ðộc thư in bài này nhằm mục đích mở ra các quan điểm nhiều chiều về cuộc Ðại Cách mạng Văn hoá của Giai cấp Vô sản [无产阶级文化大革命] và hi vọng gây ra tranh luận. Nhưng người ta coi bài “Làng Gao” thách thức sự đồng thuận chính trị giữa trí thức và quan chức của đảng kể từ thập niêm 1980 rằng Cách mạng Văn hoá là một thảm hoạ toàn diện. Mỉa mai thay, không phải các quan chức mà chính các trí thức cấp tiến đã phát hiện ra luồng nguy hiểm trước, và, tuy không nhằm chỉ trích nghiên cứu của Gao, đã phê bình ông “thiếu tính đúng đắn chính trị.” [5] Sau đó, các quan chức kiểm duyệt can thiệp và cấm tiếp tục thảo luận về đề tài này trên Ðộc thư. Ẩn ý rõ ràng của động tác này là không thể đưa bài “Làng Cao” vào Ðộc thư tinh tuyển: tính chính đáng của kỷ nguyên cải cách kinh tế (theo hướng) thị trường là dựa trên, có lẽ ở một mức độ lớn đáng ngạc nhiên, phán quyết phủ nhận Cách mạng Văn hoá; (do đó) hiển nhiên việc đưa ra một bức tranh chỉ hơi tích cực về thời kỳ đó một chút thôi cũng đe doạ phá hoại nghiêm trọng công cuộc cải cách.


Bối cảnh phê bình

Bất chấp những nhược điểm này, 6 tập Ðộc thư tinh tuyển vẫn là một tuyển tập có giá trị. Việc sắp xếp theo chủ đề cho phép những tập sách này phản ánh một cách có trật tự hơn đường hướng chính trị và học thuật của tạp chí trong thời gian vừa qua. Mặc dù các tác giả có lập trường chính trị khác nhau, nhưng hồi đáp của các tổng biên tập trước con đường phát triển hiện nay của Trung Quốc được bộc lộ rõ ràng qua chương trình nghị sự tổng thể. Tuy nhiên, đối với những người vẫn ôm ấp niềm tin vào những cái tốt của tiến trình hiện đại hoá với thị trường tự do (hay những biến thể của nó), những vấn đề mà Ðộc thư đặt ra chắc chắn khiến họ bực mình: trong phạm vi của tạp chí này, tiêu chuẩn mã hoá của tiến trình hiện đại đã sụp đổ. Thay vì (niềm tin rằng) thị trường toàn cầu, tự do, dân chủ, nhân quyền và khoa học tay trong tay tiến bước, (người đọc thấy rằng) có thể có những xung đột về quyền lợi nghiêm trọng giữa các giá trị này. Con đường đơn nhất của hiện đại hoá, phỏng theo kinh nghiệm của phương Tây, không còn được xem như phương thuốc thích hợp cho bệnh lý Trung Hoa nữa. Vào thập niên 1980, trí thức thường dùng mô hình này để phê phán cả tình trạng đình trệ của Ðế chế Trung Hoa lẫn bạo lực phá hoại của Cách mạng; nhưng dưới thời Uông và Hoàng, những phê phán như vậy nói chung bị cho ra rìa. Ðộc thư chuyển sang tập trung vào những suy nghĩ về chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, điều kiện chính trị - xã hội của thị trường, và động lực của lịch sử Trung Hoa. Với những người còn vững tin vào sự đồng thuận trước đây, việc nhận ra rằng quyền sắp đặt chương trình nghị sự của Ðộc thư không còn nằm trong tay họ nữa quả là chẳng vui vẻ gì.

Vì vậy, việc có những trí thức ăn mừng việc chấm dứt “kỷ nguyên Uông và Hoàng” của Ðộc thư không phải là điều khó hiểu. Một số người từng công khai quy kết Uông chống lại hiện đại hoá, và do đó là “phản động”, dẫn dắt Ðộc thư đi sai đường. Những người khác, nhận ra rằng lý thuyết hiện đại hoá là một hệ thống đã lỗi thời ngay cả ở phương Tây, bày tỏ sự bất mãn của họ một cách gián tiếp hơn, hoặc dựa trên những điều phi-chính trị: Ðộc thư dưới thời Uông và Hoàng không còn giữ được truyền thống văn xuôi tao nhã nữa, và trở nên quá khó hiểu; tạp chí không còn là “không gian chung” hay “ngôi nhà tinh thần” cho toàn bộ giới trí thức nữa. Ðiều này đúng tới mức độ nào? Như trên đã nói, tập năm Không chỉ để kỷ niệm bao gồm những bài viết mang tính văn chương tao nhã bậc nhất. Các tuyển tập khác cũng có nhiều bài viết hay, cho thấy rằng ý định của hai tổng biên tập là duy trì phong cách của Ðộc thư trong quá khứ. Tuy nhiên, nội dung của một số bài viết khiến các tác giả của chúng không thể không dùng những từ vựng cần thiết để viết về những vấn đề chính trị, kinh tế và xã hội đương đại. Không giống như hồi ký, các tiểu luận này thường có xu hướng phân tích, và thường có tính lý thuyết rất cao.

Một lần nữa, sự thay đổi về phong cách này cần được hiểu trong bối cảnh thay đổi về chuyên ngành diễn ra ở Trung Quốc trong thập niên vừa qua. Vào những năm 1980, trí thức đọc đủ mọi loại sách mà không mấy ý thức về ranh giới giữa các chuyên ngành; sang thập niên 1990, họ không thể không chú ý đến những ranh giới này nữa. So với văn học, các ngành khoa học xã hội mới dường như có một ngưỡng tri thức cao hơn rất nhiều: một độc giả trung bình có thể không hiểu nổi ngôn ngữ kinh tế; nhiều thuật ngữ mới được dịch sang tiếng Hán. Do vậy, việc duy trì phong cách tao nhã như trước thật không dễ dàng. Trong cuộc tranh luận gần đây, những người chỉ trích Uông và Hoàng diễn giải sự khác nhau về phong cách này là triệu chứng của việc hai tổng biên tập cắt đứt với truyền thống văn xuôi cổ điển của Ðộc thư. Trên thực tế, những phàn nàn về khả năng đọc được (readability) đã có từ giữa thập niên 1980, khi Ðộc thư bắt đầu giới thiệu lý thuyết phương Tây. Ðể bắt kịp với những thay đổi trí thức mau chóng trong thời kỳ này hiển nhiên là điều khó khăn với những thói quen đọc cũ. Nhưng cũng có những nhân tố không thể chối cãi được về những khác biệt nói chung: phần lớn các trí thức thế hệ Uông và Hoàng không được hưởng một nền giáo dục có hệ thống về các trước tác kinh điển của Trung Quốc, bị bãi bỏ sau khi Ðảng Cộng sản lên cầm quyền vào năm 1949. Một số trí thức lớn tuổi hơn như Fei Xiaotong chẳng hạn, được đào tạo ở các trường đại học phương Tây, nhưng vì được học hết các tác phẩm kinh điển trước khi ra nước ngoài, nên họ vẫn có thể viết được theo lối văn (cổ) tao nhã. Thế hệ trẻ hơn không hề có nền tảng đó để cân bằng với ảnh hưởng đột ngột của ngôn ngữ phương Tây. Nhưng đây là một hạn chế về kết cầu mà các nhà biên tập buộc phải cố giảm thiểu. Với bằng chứng là các tập sách này, có lẽ phải nói rằng Uông và Hoàng đã gắng hết sức mình để (biên tập) khiến tạp chí có thể dễ đọc hơn mà vẫn không bị biến thành lối văn bình dân. Ðộc thư hiếm khi đăng những tiểu luận nghiên cứu quá chuyên ngành, và khuyến khích tác giả viết để cho độc giả bình thường (không chuyên) có thể hiểu được. Các bài phân tích thường được đăng cùng với hồi ký hay những bài viết ngắn cho cân bằng.


Xu hướng im lặng?

Trí thức Trung Quốc cấp tiến cũng đưa ra những hình thức chỉ trích khác đối với tạp chí; phần lớn số này sống ở bên ngoài Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa: rằng mặc dù Ðộc thư đã chọn một lập trường mạnh mẽ chống lại những chính sách kinh tế tân-tự do (neo-liberal) thiếu bình đẳng của Ðảng Cộng sản Trung Quốc, tạp chí này thận trọng hơn rất nhiều trong việc đưa ra những phê bình chính trị về đặc tính đàn áp của chính phủ. Theo quan điểm của những nhà phê bình này, nhiệm vụ đầu tiên của giới trí thức là đấu tranh với chế độ để giành quyền tự trị trí thức. Ðiều không may là, tuy tất cả có thể đồng ý trên nguyên tắc về việc khao khát một nền tự trị như vậy, thậm chí ngay cả một số những trí thức cổ vũ cho điều đó hình như vẫn còn mang não trạng lấy nhà cầm quyền làm trung tâm (regime-centred), bằng cách kêu gọi giới quan chức trừng phạt các đối thủ trí thức của họ. Ðộc thư là nạn nhân của lối tiếp cận kiểu này.

Về câu hỏi rộng hơn, đúng là các tổng biên tập Uông và Hoàng thận trọng về chính trị trong một số mặt nào đó: việc loại bỏ - các bài viết về Che Guevara hay “Làng Gao” - khỏi bộ Ðộc thư tinh tuyển như đã nói ở trên, minh hoạ cho điều này. Tuy nhiên, nói rằng Ðộc thư dưới thời Uông và Hoàng không đóng một vai trò nào trong việc phê bình chế độ chuyên quyền là sai. Chẳng hạn, nhà phê bình cấp tiến nổi tiếng Qin Hui (được phỏng vấn trên New Left Review 20), thường xuyên tham gia đóng góp cho tạp chí thời Uông và Hoàng làm tổng biên tập và bài viết của ông cũng được đưa vào tuyển tập. Các trí thức cấp tiến nổi tiếng khác như Qian Liqun (sử gia nghiên cứu văn học Trung Quốc), He Qinglian (nhà báo, hiện đang sống lưu vong chính trị), Xu Ben (một nhà văn sống ở Mỹ, hiện đang nghiên cứu về Hannah Arendt) và Li Shenshi vừa qua đời cách đây không lâu. Sau khi Uông và Hoàng bị bãi nhiệm, Qian Liqun tuyên bố tại một hội thảo chuyên đề là ông lấy làm tiếc về việc này và kêu gọi trí thức đoàn kết lại trong cuộc đấu tranh cho tự do ngôn luận.

Việc tóm tắt vấn đề ở đây cũng giống như san phẳng một cảnh quan trí thức vốn rất nhiều cấp độ màu sắc khác nhau: trong cuộc tranh luận này, có nhiều luận điểm tinh tế và trùng hợp nhau, vượt xa nhãn hiệu “phe tân tả chống lại chủ nghĩa cấp tiến (liberalism)” mà người ta gán cho nó vào cuối thập niên 1990. Tuy nhiên, công bằng mà nói, tờ Ðộc thư dưới thời Uông và Hoàng tập trung chủ yếu vào việc phơi bày logic kinh tế - chính trị của liên minh giữa tư bản với một nhà nước vừa áp chế-vừa say mê chủ nghĩa phát triển. [6] Nhiều người chỉ trích tạp chí này tin rằng nhà nước có vấn đề, nhưng tư bản thì không. Vì vậy, theo quan điểm của họ, Ðộc thư phê bình tư bản quá nhiều, và tấn công nhà nước quá ít; đây chính là nguồn gốc của lập luận này.

Quan niệm cho rằng Ðộc thư từng là “ngôi nhà chung” cho toàn bộ giới trí thức Trung Hoa cũng chỉ mới nổi lên gần đây. Như đã đề cập ở phần trên, trong những năm 1980, Ðộc thư không phải là diễn đàn duy nhất cho đối thoại; có khá nhiều tạp chí khác cũng có tầm ảnh hưởng không kém. Nhưng ở đây cũng vậy, cần lưu ý đến mối quan hệ của giới trí thức với những thay đổi trong xã hội. Sự đồng thuận của thập niên 1980 về tiến trình hiện đại hoá đã tan vỡ, và Ðộc thư không thể tiếp tục dựa vào nó nữa. Xin nhắc lại: tạp chí này tiếp tục in tiểu luận của các tác giả có quan điểm khác nhau, bao gồm cả những nhà kinh tế học ủng hộ xu hướng thị trường tự do, chống lại những cáo buộc của He Qinglian. Ðiều khiến cho những người phê bình Ðộc thư đau đớn có lẽ không phải vì bài viết của những tác giả nghiêng về nền kinh tế thị trường không được đăng trên tạp chí này, mà là vì trong suốt thập niên vừa qua, những tác giả đó đã không thiết lập nổi chương trình nghị sự của họ.


Tiếng nói chất vấn

Người ta có thể biện luận là Uông và Hoàng có thể làm nhiều hơn để đáp ứng thị hiếu của những người vẫn vững tin vào sự đồng thuận trước đây. Nhưng không chắc liệu Ðộc thư có thể duy trì nổi hình ảnh của một “thời kỳ vàng son” mà không đánh mất chất lượng phê bình của mình trong bối cảnh phân cực rộng hơn của trí thức. Vì sự đồng thuận tư tưởng trong quá khứ dựa trên một số điều kiện không thể lấy lại được: trước tiên, đó là sự đoàn kết chưa từng thấy giữa quan chức của Ðảng và giới trí thức, có được do những ký ức còn tươi rói về Cách mạng Văn hoá; thứ hai, cấu trúc quyền lợi không có sự khác biệt trong xã hội Trung Quốc. Ngày nay, chính một bộ phận lớn công nhân và nông dân bị gạt ra lề trên con đường phát triển của Trung Quốc hiện nay cũng không còn tin vào sự đồng thuận tư tưởng này nữa. Trong bối cảnh đó, nếu Ðộc thư tiếp tục vận hành theo những giá trị của thập niên 1980 thì rõ ràng điều đó cũng đồng nghĩa với việc không nắm bắt được các thay đổi đang diễn ra. Chính vì thế mà Ðộc thư không chọn con đường duy trì “sự đoàn kết” bất khả của giới trí thức; thay vì vậy, tạp chí đặt ra những câu hỏi mới cho toàn xã hội.

Trên thực tế, nhiều vấn đề mà Ðộc thư đặt ra đã trở thành những mối quan ngại chung và thậm chí còn gây ảnh hưởng tới chính sách công. Nhà nước chỉnh sửa lại thuyết “hiệu suất là trên hết” vào năm 2004, và sự phát triển bền vững được chính thức chú ý hơn dưới khẩu hiệu mới của đảng là “phát triển khoa học”. Chi phí về y tế và an ninh xã hội được gia tăng, rồi ngân sách cho hạ tầng cơ sở nông thôn cũng vậy; thuế nông nghiệp được huỷ bỏ. Ðiều này không có nghĩa là những bất bình đẳng xã hội được hạn chế, chưa nói đến chấm dứt. Trong nhiều trường hợp, chính quyền địa phương cưỡng lại hoặc ngầm phá hoại các chính sách xã hội; với họ, việc gia tăng chỉ số GDP (tổng sản phẩm nội địa) là chỉ thị quan trọng nhất để họ có thể thăng tiến trong hệ thống quan chức. Ðiều đó biến chính quyền địa phương thành cỗ máy trục lợi. Dù các lãnh đạo chóp bu có thể muốn thay đổi điều này, nhưng nhiều nhóm có quyền lợi đã có mặt ở xã hội địa phương, nơi quyền lực nhà nước (địa phương) và tư bản hợp tác với nhau. Trong hoàn cảnh đó, các chính sách xã hội nhiều nhất cũng chỉ có thể cải thiện những điều tồi tệ đang diễn ra trên con đường phát triển chứ không thể chữa trị chúng. Tuy vậy, công bằng mà nói, những mối nguy hiểm của sự bất bình đẳng trong xã hội đã được biết đến rộng rãi, và những “thầy tu” quảng bá cho thuyết “hiệu suất là trên hết” không còn được coi là bất khả công kích nữa. Trên không gian ảo (cyberspace) của Trung Quốc, các nhà tân-cấp tiến (neo-liberal) bị chỉ trích gay gắt là quản lý cải cách tồi tệ, dẫn đến hậu quả là sự bất bình đẳng xã khủng khiếp. Người ta cũng đã đặt vấn đề với hình ảnh rực rỡ về thị trường tư bản toàn cầu và trật tự chính trị, đặc biệt kể từ khi các mặt hàng xuất khẩu của Trung Hoa vấp phải chế độ bảo hộ thương mại ở Mỹ và Châu Âu trong những năm gần đây. Ðiều này khiến cho nhiều người nhận ra rằng thế giới không phẳng. Các nhà cấp tiến giờ đây có xu hướng nói rõ là họ không thuộc trường phái tân-cấp tiến, và chú trọng hơn tới công bằng xã hội trong những bài viết của họ. Hẳn là sai lầm nếu chúng ta lờ đi ảnh hưởng của Ðộc thư trong tất cả những vấn đề này.

Nhưng những thay đổi này không hàn gắn được hố ngăn cách đang tồn tại trong giới trí thức Trung Hoa mà, ngược lại, còn làm sâu thêm. Hình thức của việc bãi nhiệm Uông và Hoàng có thể có vẻ như phi chính trị; nhưng nghiêm khắc mà nói, đây là một tiến trình chính trị bị phi chính trị hoá. Lý do kỹ thuật mà Nhà xuất bản SDX viện dẫn không thuyết phục nổi ai. Nguyên nhân thực sự nằm ở chỗ khác. Phần lớn các trí thức Trung Quốc đều dễ dàng nhận thấy ẩn ý chính trị của sự thay đổi đột ngột này. Là một doanh nghiệp nhà nước, SDX trực thuộc Tổ hợp Xuất bản Trung Quốc, nằm dưới sự lãnh đạo của Ban Tuyên truyền Trung ương của Ðảng Cộng sản Trung Quốc. Các quan chức có động cơ quan trọng để thuần phục tờ tạp chí “gây rắc rối” này; vì mặc dù phong cách của Ðộc thư là ôn hoà, những tư tưởng mà nó truyền bá có khả năng gây nguy hiểm, và các trí thức tân-cấp tiến không còn nói xấu nó nữa. Có thể chúng ta sẽ không bao giờ biết được điều gì xảy ra sau bức màn sân khấu (nguyên văn: trong hộp đen – ND); nhưng thậm chí ngay cả trước khi Nhà Xuất bản SDX công bố (việc bãi nhiệm) các tờ báo cấp tiến đã loan tin là Ðộc thư sẽ thay tổng biên tập, và một số những người không thích hai tổng biên tập này đã bắt đầu ăn mừng chiến thắng.

Ðiều bất ngờ là tuyển tập sáu tập này đánh dấu sự kết thúc “kỷ nguyên Uông và Hoàng” của Ðộc thư. Còn phải chờ xem con đường sắp tới của tạp chí này là gì. Vài tháng đầu sau vụ Uông và Hoàng bị bãi nhiệm, nó có vẻ như vẫn theo đường cũ. Nhưng số tháng Một năm 2008 đã có những thay đổi về bản chất, với bài viết mở đầu là “Kêu gọi một nền kinh tế thị trường theo pháp quyền”. Dưới thời hai tổng biên tập trước đây, khó có khả năng tạp chí này sẽ dùng một khẩu hiệu chính trị chính thống kiểu này làm tựa đề cho một tranh luận của trí thức. Bộ Ðộc thư tinh tuyển vẫn là một cửa sổ qua đó thế giới có thể thấy được những biến đổi xã hội của Trung Quốc trong thập kỷ đầy biến động vừa qua, và định vị những tư tưởng của giới trí thức Trung Hoa trong bối cảnh lịch sử của nước này. Giai đoạn vừa qua chứng kiến một sự đảo ngược: các nhà tư tưởng và các nhà văn trước đây từng đoàn kết do khát vọng hiện đại hoá giờ đây bị chia rẽ bởi tiến trình cải tổ và phát triển khắc nghiệt. Trước những phân hoá đau đớn này, một số người không thể không tìm nguồn an ủi bằng cách ngoái nhìn lại sự đồng thuận của những năm 1980. Với những lối nghĩ quẩn như vậy, quá khứ ngày càng giống như thời kỳ vàng son. Trong kỷ nguyên của hoài niệm, Ðộc thư tinh tuyển, 1996-2005 dội một gáo nước lạnh: “Thời kỳ vàng son” càng mất không thể cứu vãn nổi, vì giờ đây ngay cả huyền thoại cơ sở của nó cũng tan vào không khí. Với trí thức Trung Hoa, bây giờ là thời điểm họ phải đứng trên chính hai chân của mình và dũng cảm vật lộn để tự khẳng định.


[10]Dushu Jing Xuan, vol. iii, Bishi de Yanshen, 390 trang.
[11]Bản ngắn hơn đăng bằng tiếng Anh với tựa đề ‘Ruins of the Future’, trên New Left Review, 31, Jan–Feb 2005.
[12]Dushu Jing Xuan, vol. v, Bujin Weile Jinian, 579 trang.
[13] Dushu Jing Xuan, vol. vi, Dushu Xianchang , 469 trang.
[14] Xem tờ Nanfang Zhoumo (Phương Nam cuối tuần), 29 March 2001.
[15]Nguyên văn: oppressive-developmentalist state – ND.

Nguồn:
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Giới trí thức tinh hoa trong lịch sử Việt Nam

    14/10/2018Trần Ngọc VươngChúng tôi muốn góp bàn về việc nhận diện thực trạng của giới tinh hoa trong lịch sử Việt Nam và những đặc điểm của giới đó có thể trở thành chướng ngại mà chúng ta cần khắc phục trong việc hướng tới hình thành giới tinh hoa mới trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay...
  • Tân thư và phong trào Duy Tân ở Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam thời kỳ cận đại

    25/07/2016Phan Trọng ThưởngDấu hiệu rõ nhất cho thấy quá trình chuyển mình lịch sử tư tưởng-chính trị và học thuật của các nước phương Đông, trong đó có Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam là phong trào Duy tân diễn ra gần như cùng một thời điểm ở hàng loạt quốc gia Đông và Đông Nam châu Á, trong đó, Tân thư có một vai trò hết sức quan trọng...
  • Văn hóa Việt Nam qua hai lần “Âu hóa”

    26/05/2015Về đại thể, văn hoá cận - hiện đại nước ta có hai lần bị/ được “Âu hóa”: Lần thứ nhất, là do người Pháp mang đến. Lần thứ hai, là do người Mỹ, theo bước người Pháp, rồi kéo dài một mạch cho tới “Thế giới phẳng” bây giờ...
  • Toàn cầu hóa và hội nhập văn hóa

    21/01/2015Đinh Quang TổnToàn cầu hóa là một xu thế không thể cưỡng lại đối với tất cả các quốc gia. Chủ động để hội nhập là một thái độ tích cực, khôn ngoan. Chủ động hội nhập là khẳng định đường hướng có chiến lược, có chiến thuật, có kế hoạch cho tùng bước đi. Chủ động hội nhập sẽ khai thác được nhiều nhất những thuận lợi, những cơ hội để dân tộc có nhiều lợi ích nhất...
  • Cứu nước vẫn không quên đọc sách

    21/04/2014Cẩm AnhHôm nay, 21-4, lần đầu tiên mọi người Việt Nam hiếu học và khát khao tri thức có một ngày tôn vinh Sách. Tháng tư này cách đây 87 năm, lần đầu tiên tác phẩm Đường Kách mệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh được in bằng tiếng Việt bởi chính những người thợ in Việt Nam...
  • Tân văn - Tân thư và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng yêu nước ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

    07/11/2006PGS, TS Lê Thanh BìnhTân thư góp phần giúp cho trí thức Việt Nam tiêu biểu thời đó học được phương pháp mà sau này người ta thường gọi là: “Tự thức tỉnh, tự phê phán" để nhìn nhận rõ các ưu khuyết, nhất là các nhược điểm trầm trọng của chính tầng lớp mình, của nhân dân mình, dân tộc mình đặng sửa chữa, khắc phục...
  • Ảnh hưởng của “Tân thư” trong tư tưởng Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh

    17/07/2006PGS. PTS. Lê Sĩ ThắngĐối với các nhà nho Việt Nam yêu nước hồi đầu thế kỷ - những người đã từng bị Nho giáo bưng tai bịt mắt, đã thấy được ở một chừng mực nào đó sự lạc hậu của nhà trường Nho giáo và đang khao khát giải thích nhiều vấn đề có liên quan đến sự nghiệp giải phóng dân tộc, thì “Tân thư" đã có sức hút mãnh liệt...
  • xem toàn bộ