Vấn đề là chủ nghĩa xã hội hiện đại chứ không phải chủ nghĩa xã hội cổ điển
Không kể những người mang tính thù địch chống lại CNXH, kể cả CNXH cổ điển về mặt lập trường chính trị (chứ không phải về mặt mô hình), thì điều mà chúng ta đáng quan tâm hơn là những người ủng hộ CNXH nhưng quan niệm và nhận thức khá khác nhau, có lúc đối lập nhau, hoặc với những phản biện rất sâu sắc.
Trên thực tế CNXH hình thành trong thế kỷ 20 thì có loại cực tả, duy ý chí hay giáo điều từ những bối cảnh lịch sử với trình độ xuất phát phát triển thấp và bị khúc xạ qua lịch sử của chính truyền thống văn hóa chính trị của các nước này, hoặc cũng có loại hơi rơi vào “cực hữu”, theo cách nhận định hiện thời.
Ngày nay, trước bộn bề của những bài học lịch sử và bước tiến mới của thời đại trong đó có CNTB, chúng ta cần nhận thức lại toàn bộ lịch sử vận động của CNXH ấy và của CNTB hiện đại, lấy nó làm điểm xuât phát để xem xét vấn đề về CNXH. Nhưng CNXH nào?
Chấp nhận có nhiều quan niệm khác nhau về CNXH nhưng mỗi nước phải hướng đến lựa chọn một CNXH phù hợp nhất với quy luật lịch sử và trình độ phát triển ở mỗi nước. Và trên bước dựng xây dựng nó chúng ta sẽ còn điều chỉnh, bổ sung và phát triển.
Vấn đề là cần có quan niệm phi truyền thống về CNXH.
1- CNXH nào?Xin nhắc lại rằng, ngày nay chúng ta bàn nhiều về CNXH, nhưng CNXH nào? Theo chúng tôi, vấn đề không phải là CNXH cổ điển (CNXH truyền thống) mà là CNXH hiện đại. Đó là chưa kể có thể có CNXH hậu hiện đại, tức CNXH hoàn chỉnh bước vào CNCS cao.
Có thể giả định rằng, CNTB hiện đạisang hậu hiện đại (CNTB phiên bản 3.0 chăng, như có tác giả từ phía tư tưởng gia TBCN đưa ra khi bàn về cải cách CNTB hiện nay), và còn kéo dài hết thế kỷ này. Và cũng có thể cuối thế kỷ này có một CNXH ra đời từ CNTB phát triển cao chăng? Việt Nam hay Trung Quốc vào cuối thế kỷ này mới có thể đuổi kịp CNTB phát triển chăng? Đó là chuyện một thế kỷ nên ở bài viết này chỉ phác thảo suy nghĩ vài nét về CNXH hiện đai từ lịch sử CNXH trong thế kỷ 20 và CNTB hiện đại ngày nay.
Không thể nói CNXH chung chung. Bởi xa xưa đã có CNCS nguyên thủy và sau này sẽ có CNCS hiện đại. Nhưng ngay từ năm cuối đời Ăngghen đã nói rằng đã từ 30 năm trước đó không còn dùng khái niệm CNCS nữa (tài liệu này có thể Lênin không biết, vì lúc đó chưa công bố chăng?). Rằng để sau này khi có hoàn cảnh thích hợp thì sẽ sử dụng. Tức là bây giờ nên sử dụng khái niệm CNXH. Cần chủ ý là thời viết Tuyên ngôn của Đảng cộng sản thì khái niệm CNXH là chỉ các trào lưu sai lạc mà Mác –Ăngghen phê phán
.
Lúc đó, chỉ có khái niệm CNCS mới phản ánh đúng tư tưởng mới của Mác và Ăngghen. Nhưng CNCS về sau là muốn chỉ giai đoạn phát triển cao của hình thái này, giai đoạn thấp là CNXH, hơn nữa CNTB vào cuối thế kỷ 19, Ăngghen nhận thấy rằng, nó đang còn sức phát triển lâu dài.
Song cùng với phong trào công nhân và cộng sản quốc tế thì có nhiều trào lưu, mô hình CNXH như CNXH kiểu Xô Viết, mô hình CNXH kiểu Thụy Điển (và Bắc Âu nói chung). Mô hình Nam Tư thì cũng gần như mô hình Bắc Âu. Mô hình Trung Hoa hay Việt nam thì cũng gần như mô hình Xô Viết. Tuy rằng, các kiểu loại và các mô hình từ đó có biến thể nhất định. Bên cạnh CNXH nhà nước lại có CNXH thị trường, hay CNXH dân chủ, tôi gọi các mô hình hay kiểu loại CNXH trong thế kỷ 20, nhất là mô hình Xô Viết là mô hình hay kiểu CNXH cổ điển (CNXH nhà nước của Liên Xô cũ là dạng thức CNXH theo phương thức sản xuất châu Á). Các mô hình này tuy trình độ phát triển còn thua xa CNTB phát triển, nhất là về mặt kinh tế, nói chung đều có đặc điểm chế độ công hữu về TLSX dưới hai hình thức quốc doanh và tập thể và quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân lao động (nhưng lại mang hình thái tập quyền, có khi là chuyên chế tập thể và chế độ dân chủ quân sự), tức không phải của giai cấp địa chủ hay của tư bản. Đây là CNXH cổ điển, chưa phải là CNXH văn minh hay CNXH hiện đại. Mác-Ăngghen cũng sử dụng khái niệm này khi nói về CNXH theo lý thuyết của mình.
CNXH văn minh hay CNXH hiện đại là CNXH từ CNTB, hậu TBCN, nghĩa là phát triển trên nền tảng văn minh loài người dạt được trong CNTB, thời đại TBCN.
2. CNXH hiện đại là gì? CNXH đích thực (phân biệt với CNXH hình thức), đúng nghĩa phải là CNXH hiện đại, hậu TBCN. CNXH này vừa phủ định CNTB vừa tiếp tục CNTB và phát triển lên trình độ cao hơn, tức vượt qua CNTB phát triển nhất. Không nên ngộ nhận CNXH trong quan điểm Mác - Ăngghen là CNXH cổ điển mà đúng ra phải là CNXH hiện đại ấy (tuy có bị hạn chế về mặt lịch sử thời đó). Thế kỷ 20 đã quan niệm và xuất hiện trong hiện thực - CNXH ở một số nước có CNTB thấp, lại khác với quan niệm của Mác - Ăngghen. Chính Lênin cũng đã thay đổi quan niệm cũ về CNXH khi chuyển sang NEP. Với NEP (dù còn sơ khai) thì CNXH đã rất khác trước, có triển vọng hướng về CNXH, từ CNTB và hậu TBCN hiện đại, là CNXH văn minh, đích thực dù còn đang sinh thành.
CNXH hiện đại như vậy là thời kỳ quá độ lên CNCS giai đoạn cao. Nó chỉ cần xóa bỏ sự thống trị của giai cấp tư sản trong chế chính trị và chế độ kinh tế. Còn kế thừa các hình thức và nội dung tiến bộ của CNTB trong các bộ phận cấu thành của CNTB. Chứ không phải nói xóa bỏ CNTB (hay chế độ sở hữu tư nhân TBCN) là xóa bỏ tất cả nói chung. CNXH hiện đại vừa khác với CNTB vừa giống với CNTB, nhưng cao hơn CNTB rất nhiều.
CNXH hiện đại, nhìn lát cắt cấu trúc, theo hiểu biết ngày nay là: 1) dựa trên nền kinh tế tri thức; 2) và thể chế kinh tế thị trường xã hội/ hiện đại; 3) hình thái sở hữu hỗn hợp trong đó hình thức cổ phần là chính; 4) với nhà nước pháp quyền của nhân dân do nhân dân, vì nhân dân; 5) xã hội dân sự văn minh, dân chủ cao; 6) chế độ phúc lợi xã hội, 7) môi trường sinh thái xanh sạch, 8) cùng với con người được giải phóng đang phát triển tự do và toàn diện hơn, 9) hội nhập toàn cầu. Điều đáng lưu ý là quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu là theo chế độ hỗn hợp đa sở hữu trong đó hình thái sở hữu cổ phần là quan trong nhất thể hiện chế độ công hữu và tập thể một cách có chủ, chứ không phải vô chủ như trong CNXH cổ điển. Chính Mác khi nói về hình thái sở hữu công cộng XHCN cao, nhất là CSCN là một hình thái Liên hợp tự do của những người tự do, trong đó kế thừa các sở hữu cá nhân trong nền sản xuât trước đó, chứ không phải trở về sở hữu công cộng của CNCS nguyên thủy trong đó không có sở hữu cá nhân. Sỡ hữu cá nhân hay hình thức tư hữu văn minh không chỉ bị hiểu lầm chỉ là sản phẩm tiêu dùng mà cả tư liệu sản xuất, khi họ có cổ phần trong đó. Chính CNTB hiện đại đã hé lộ ra hình thái cổ phần, tức sở hữu công cộng hay sở hữu tập thể kiểu mới.Nói như Lênin rằng chúng ta thấy CNXH hiện ra bên cửa sổ của CNTB hiện đại đã đạt được.
Như vậy, lúc đó, nói tóm lại, CNXH hiện đại là một kiểu tổ chức lao động xã hội có năng suất cao hơn CNTB và một thể liên hiệp các cá nhân tự do, dân chủ gấp nhiều lần CNTB.
Nhưng trong tiến trình tiến hóa của nó CNXH này cũng có nhiều trình độ khác nhau: thai nghén, sinh thành: thơ ấu, thanh thiếu niên, trung niên và cao (già - chuyển hóa lên trình độ mới)
CNXH hiện đại theo lát cắt bản chất đặc trưng thì đó là xã hội do 1) nhân dân làm chủ với thiết chế dân chủ toàn diện, cao; 2) dân giàu nước mạnh, văn minh, 3) hội nhập và tiến cùng thời đại; 4) dân tộc độc lập, con người tự do; 5) ngày càng công bằng, đồng thuận và hạnh phúc.
Tư duy này cùng với lôgich của lịch sử tiến hóa cho thấy như vậy mới biện chứng phù hợp với quy luật phủ định của phủ định, chứ không phải kiểu xóa bỏ sạch trơn tạo nên sở hữu công cộng vô chủ/ hay chỉ mang tính hình thức, kiểu CNXH cổ điển. Không nhìn vào CNTB hiện đại chúng ta không hình dung ar CNXH văn minh, đích thực, hiện đại và sẽ rất dễ hình thành CNXH từ tư duy tiểu sản xuât, tiền TBCN, tạo nên CNXH cổ điển thậm chí mang tính công xã nguyên thủy. Kinh nghiệm của CNXH cổ điển trong thế kỷ 20 càng cho thấy điều đó.
3- Nhưng phải chăng chúng ta chờ CNTB hiện đại sinh ra CNXH hiện đại? Không.
Trong thời đại ngày nay từ một nước tiền TBCN hay bắt đầu có yếu tố TBCN nhưng khi nhân dân năm được chính quyền do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo thì có thể phát triển không theo con đường hình thành chế độ TNCN mà có thể bỏ qua nó, nhưng lại phải kế thừa, sử dụng và phát triển những hình thức kinh tế xã hội mà CNTN đã tạo ra, tức đứng trên vai CNTB mà phát triển, phát triển qua cái khác của nó là như vậy. Mô hình tái kinh tế xã hội khác đang hình thành. Giai đoạn thứ nhất là chế độ dân chủ nhân dân, giai đoạn 2 là CNXH và giai đoạn 3 là CNCS cao. Giai đoạn DCND (dân chủ tư sản kiểu mới) là phát triển có trình độ tương đương CNTB phát triển chứ không phải như quan niệm cũ. CNXH là giai đoạn tương đương TBCN cao hay đúng hơn phải là hậu TBCN. CNCS là giai đoạn cao của hình thái kinh tế xã hội CSCN.
Chúng ta ngày nay vẫn đang ở giai đoạn DCND định hướng XHCN, theo quan niệm mới. Nghĩa là giai đoạn DCND ngang với thời kỳ qua độ lên CNXH, hay thời kỳ xây dựng tiền đề cho CNXH văn minh. Cho nên dùng thời kỳ quá độ sẽ dễ hiểu lầm như một thời, từ đó xóa sạch các hình thức tư hữu về TLSX, kiểu CNXH thuần túy, duy ý chí, giáo điều chủ nghĩa. Thời kỳ định hướng XHCN là thời kỳ mang hình thái chế độ DCND, Chính qua thời kỳ đổi mới, từ bỏ mô hình CNXH cổ điển, chuyển sang CNXH ĐỔI MỚI, như chúng ta đang xây dựng từng bước là chuyển dịch gần với mô hình CNXH dân chủ, hay Dân chủ xã hội (cùng thực hiện dân chủ hóa, cơ chế thị trường xã hội, kinh tế có sở hữu hỗn hợp và nhà nước pháp quyền của nhân dân, coi trọng chế độ phúc lợi xã hội) Tuy nhiên, mô hình CNXH kiểu mới mà chúng ta sẽ, đang xây dựng hướng tới là một mô hình có khác mô hình Bắc Âu (mô hình mà một thời có khi coi là xét lại chủ nghĩa Mác)
Cần chú ý những nước như nước ta trong tiến trình từng bước xây dựng tiến lên CNXH hiện đại thì vừa cótiến hóa theo chiều dọc (vượt lên chính mình, cao hơn trước, tiến bộ hơn trước) vừa có tiến hóa theo chiều ngang (chuyển dịch thành tựu của thế giới đã có vận dụng vào nước ta). Tiến hóa theo chiều ngang rất quan trọng, hiện tại vẫn là cách thức chính và như vậy là đi tắt đón dầu theo cách nói ngày nay. Có sự đan xen tiến hóa theo chiều ngang (lược bỏ, rút ngắn) mới có tiến hóa theo chiều dọc. Chúng ta cần chú ý chuyển hóa các yêu tố vốn có trong CNTB dần thành tiếu tố XHCN với các mức độ, tính chất khác nhau. Không thể quan niệm một CNXH ngoài CNTB quay lưng lại với văn minh nhân loại ngày nay mà dòng chính đang thuộc về CNTB. Tuyệt đối không nên đối lập một cách siêu hình giữa CNTB và CNXH.
4- Như vậy, CNXH là một xã hội Hữu sản toàn dân chứ không phải vô sản của chung vô chủ(tức không có tài sản là TLSX như cách hiểu cổ điển), một xã hội thật sự dân chủ, tự do và thịnh vượng từ đa số đến mọi người nói chung.
CNXH hiện đại là kiểu, dạng thức hay mô hình chúng ta cần tới chứ không phải là CNXH cổ điển, dù rằng nó vẫn có những nhân tố cần kế thừa.
Và điều quan trọng là CNXH cổ điển tuy rằng, nó có nhiều khiếm khuyết, hạn chế, và trình độ còn thấp nhưng với sự hiện hữu của nó tại thế kỷ 20 với Cách mạng Tháng Mười Nga thì nó đã mở ra một thời dại mới: thời đại TBCN đã bắt đầu cáo chung và thời đại quá độ lên CNXH trên phạm vi thế giới đã mở đầu. CNXH cổ điển đã không vượt qua được chính mình, nó rơi vào khủng hoảng và có nước đã sụp đổ và có nước đổi mới, cải cách tiến lên theo hướng CNXH kiểu mới, hiện đại.
CNXH từ đối trọng, thậm chí đối địch với CNTB trong thế kỷ 20 đã dần dần trở thành đối tác, hợp tác với CNTB cùng phát triển trong thế kỷ 21. Đây là thời kỳ cùng tồn tại hòa bình, thông qua đối thoại, hợp tác và đấu tranh để giải quyết những vấn đề chung của nhân lại ngày nay. Xét về mặt CNXH cũng là phát tiển qua cái khác của nó để trở lại bản thân mình. Như vậy là phủ định hay khẳng định phải qua nhiều khâu trung gian, nhiều cấp độ chứ không phải tam đoạn luận máy móc.
Dù là sở hữu công cộng và nhà nước của dân nhưng đất nước còn nghèo thì chưa phải là CNXH hay cùng lắm là CNXH cổ điển, nguyên thủy, nhưng một nước giàu mạnh cũng chưa hẳn là CNXH nếu dân không được hưởng và làm chủ thật sự. Chính vì vậy Hồ Chí Minh quan niệm CNXH là Dân chủ và Giàu mạnh, và CNXH làĐộc lập - Tự do - Ấm no - Hạnh phúc.
Cách nhìn nhận, phân biệt, phân loại về CNXH cổ điển và CNXH hiện đại và lôgích tiên hóa biện chứng nói trên như vậy sẽ tránh được sự ngộ nhận và lầm lẫn về CNXH và tránh được từ đó có thể cứ tranh luận nhưng nội hàm CNXH mỗi người sử dụng về CNXH với khái niệm này rất khác nhau do nhận thức hay thói quen của quán tính bị đóng khung trong tư duy cũ.
Đại thể quan niệm về CNXH phi truyền thống là như vậy và chủ thuyết phát triển Việt Nam là phải tiến lên CNXH hiện đại (tiến lên hiện đại và XHCN). Xin nêu ra cùng bạn đọc thảo luận.
Xem thêm:
- Về Đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển
- Nghiên cứu, học hỏi qua so sánh với mô hình Thụy Điển: Di chúc Hồ Chí Minh với mục tiêu phát triển đất nước và các mô hình về CNXH
- Những suy nghĩ khi đọc tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” của chủ tịch Hồ Chí Minh
- Di chúc Hồ Chí Minh: Vấn đề dân chủ và "Thực hành dân chủ rộng rãi" với bối cảnh hiện nay
- Sửa chữa lỗi sai và phát triển Hệ thống
- Tác phẩm Hệ thống xã hội chủ nghĩa: Chính trị kinh tế học phê phán
- Con đường dẫn tới nền kinh tế tự do
Nội dung khác
Tại sao con người cần phải học?
15/09/2016Nguyễn Hữu ĐổngTìm kiếm danh phận
22/07/2011Nguyễn Văn Trọng7 phát hiện bất ngờ sau khi đọc nguyên tác "Hành trình về phương Đông"
03/08/2023Thái Đức PhươngNói với các doanh nhân: "Đỉnh của bạn đâu" để có được...
03/08/2023Nguyễn Tất ThịnhThiên thần” vỗ về những đêm dài thao thức.
03/08/2023Tiểu Mai"Đỉnh Ngu" từ Hiệu ứng Dunning & Kruger
05/06/2022Ngọc HiếuTản mạn nghịch lý và tại sao???
29/12/2007Linh LinhToàn cầu hoá và chuyện thịnh suy của môn văn học
31/01/2006Ngô Tự LậpSống chậm giữa đời nhanh
02/07/2010Lê Thiếu NhơnTương lai trong lòng quá khứ
06/02/2009Nguyễn QuânKế thừa tinh thần yêu nước truyền thống của dân tộc ta trong bối cảnh toàn cầu hóa
02/02/2010Mai Thị QuýBóng đá: trò chơi cũ kỹ theo một trật tự cũ kỹ và trong một thế giới cũ kỹ
22/06/2006Trà Đoá