Châu Á trong bối cảnh thế giới mới

12:14 CH @ Thứ Tư - 19 Tháng Năm, 2010

Chỉnh lại tâm

Thế giới ngày nay không thiếu những nghịch lý. Trong cái mà ta gọi là bối cảnh vừa có vấn đề làm lệch tâm, vừa là chỉnh lại tâm, cái này sẽ không tồn tại mà thiếu cái kia. Về phía làm lệch tâm, các cường quốc được xác lập mà không phải tất cả đều có từ xưa muốn ở trung tâm của thế giới mà nó tạo nên. Về phía chỉnh lại tâm, các cường quốc đang nổi lên trong đó một số tồn tại từ lâu muốn tạo lập tâm ở chính nhà họ, tức trong một tâm khác về địa lý: đây là điều chợt nghĩ tới.

Không ai sẽ quên rằng địa lý trước hết là tập hợp các định vị. Hai khía cạnh bộc lộ ngay lập tức: một mặt đó là những địa điểm không bao giờ đổi chỗ (ở cấp độ nhân văn) và một khác những địa điểm này mang, đảm đương, chuyên chở, nhập, xuất... một lượng lớn các đối tượng, kể cả phi vật chất, ý tưởng, hình ảnh… Một ví dụ gần đây, hồi tháng 4/2010 có liên quan đến lệch tâm-chỉnh lại tâm: những chiếc xe hơi nhãn hiệu Volvo nổi tiếng trang trọng, nặng và vững chãi trên những chiếc giảm xóc của phụ nữ đang vào độ chín, có thắt đai an toàn, chuyển tải một hình ảnh của Thụy Điển về sự bền vững, chắc chắn, hoàn thiện, sức mạnh, tiện nghi tư sản và sự sảng khoái sạch sẽ, đã bị hãng Ford của Mỹ mua lại vào năm 1999. Hãng xe này sau đó bị công ty còn trứng nước là Geely của Trung Quốc mua lại tiếp, mà người ta vẫn chưa biết được hình ảnh nào sẽ nổi lên. Các vụ đánh cược bắt đầu.

Cơ hội đem đến cho mọi người sự biến động như vậy được mang tên toàn cầu hóa. Ngày nay, toàn cầu hóa dựa vào chủ nghĩa tư bản đang thắng thế; tư tưởng tự do và “dân chủ” thái quá; sự thông minh khi chuyển dịch hoạt động sản xuất tới nơi có chi phí thấp - kệ cho những người công nhân đang trở nên tốn kém! - , đổ xô tiêu dùng ngày càng nhiều loại sản phẩm càng ngày càng trở nên hiện đại được sản xuất từ các kỹ thuật không ngừng được cách tân mà ngay cả những công nhân bị thất nghiệp cũng ước mơ được sở hữu dù cho ít khi đem ra sử dụng.

Đâu là phương tiện cho sự biến động này? Sự phát triển nhanh chóng các phương tiện vận tải đa phương tiện và nhất là của các phương tiện truyền thông giúp truyền tải thông tin gần như tức thời, và các phương tiện này ngày càng được tin học hóa và nhanh hơn ; vai trò ngay càng lớn của tài chính ; chấp nhận mua hàng hóa theo hình thức trả góp. Những nền tảng vốn dễ dàng đạt được này đã khuyến khích một số nước được coi là mới nổi mở két sắt của mình, sẵn sàng thu hút mọi lượng tiền hiện có với cái giá là chút việc làm ít ỏi được trả công rẻ mạt cho những người nông dân của mình đang trên đường hiện đại hóa. Điều này đã được Nhật Bản thực hiện ở quy mô nhỏ ngay từ những năm 1950. Năm 2010, mở cửa đã trở nên phổ biến và cạnh tranh trở nên gay gắt. Chọn lọc tự nhiên diễn ra giữa các cá thể, doanh nghiệp, các dân tộc các quốc gia và chỉ những ai quả cảm nhất mới chiến thắng, tạo nên một thế giới trong đó mỗi người lần lượt hoặc cùng lúc vừa là đối tượng, vừa là đối tác của tất cả mọi người. Trong một vòng xoáy hợp tác và cạnh tranh lẫn lộn mà ngôn ngữ mới gọi là “hợp tác-cạnh tranh” do những “đối tác-đối thủ” tiến hành.

Mà, lại thêm một nghịch lý nữa, tồn tại hai tiêu điểm: thế giới toàn cầu hóa tụ vào tiêu điểm châu Á, và một phần quan trọng của châu Á tụ vào tiêu điểm Trung Quốc. Điều này diễn ra vào thời điểm Trung Quốc quyết định lo cho mình trước hết, tức duy trì với phần còn lại của thế giới, trong đó có cả châu Á, mối quan hệ ích kỷ mà nước này khôn khéo gọi là cùng có lợi. Có lợi cho Trung Quốc, Trung Quốc quan tâm theo kiểu khai thác bất kỳ nơi nào có thể tại châu Âu và tại các nước phát triển, những công nghệ mà nước này còn thiếu để nhanh chóng trở thành nước phát triển. Có lợi cho đối tác của Trung Quốc, với điều kiện những đối tác này tin vào điều đó.

Rõ ràng việc Trung Quốc tạo dựng sức mạnh là chính đáng. Chính vì vậy nước này đi tìm kiếm sức mạnh quân sự mặc dù hiện còn tụt hậu nhiều so với Mỹ và đối với Trung Quốc vấn đề không phải là tìm cách vượt Mỹ mà là tái cân bằng lực lượng. Hiện nay Trung Quốc là nước duy nhất trên thế giới tự cho phép mình điều này trong tương lai (cùng với Nga, ai mà biết được?). Các nhà lãnh đạo Trung Quốc hiện nay ý thức được nỗi e ngại mà sự phát triển của Trung Quốc gây ra xung quanh họ và thậm chí xa hơn, nhưng họ có nhu cầu cấp thiết, để đạt mục tiêu của mình là sự ngang bằng, phải trở thành những nhà vô địch mới của châu Á, kể cả Nhật Bản. Họ đầu tư vào đó thời gian, những nỗ lực của họ sẽ bị cản trở, Mỹ sẽ không để cho họ làm vậy bởi quan hệ quốc tế chỉ là những thay đổi về tương quan lực lượng. Ngoài ra, Trung Quốc sẽ phải giải quyết vấn đề Đài Loan và các vụ tranh chấp tại biển Đông và sẽ phải vượt qua muôn vàn khó khăn nội bộ trước khi đạt được xã hội thái bình như họ mong muốn.

Tuy nhiên, nước Trung Quốc đang bành trướng sức mạnh này - loại trừ khả năng có thể tồn tại sự bành trướng lãnh thổ - lại hấp dẫn châu Á, mỗi nước châu Á cũng mơ ước đạt được sức mạnh. Châu Á đã quên lãng sức mạnh Trung Quốc kể từ năm 1421 là năm hoàng đế Vĩnh Lạc dời đô về Bắc Kinh, vị hoàng đế mà 10 năm sau đó cấm người anh em cùng vú nuôi là vị đô đốc thái giám theo Đạo Hồi Trịnh Hoà tiếp tục các cuộc thám hiểm đầy kỳ thú của mình nhằm tái thiết lập sự thần phục mang tính chư hầu của các quốc vương châu Á đối với hoàng đế Trung Hoa. Tuy nhiên châu Á đã không thực sự có dịp vui mừng với điều đó khi nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha Bartolomeu Diaz đi vòng quanh mũi cực Nam châu Phi vào tháng 8/1487, cho phép một đám người tham lam thuộc mọi chủng tộc châu Âu dần chiếm toàn bộ châu Á như bản đồ các cuộc thám hiểm cho thấy. Thậm chí ta có thể khẳng định rằng nếu như Nhật Bản thoát khỏi khó khăn vào thế kỷ 19 dễ dàng hơn Trung Quốc do nước này bị các tàu buôn Mỹ bắt buộc mở cửa cho thương mại phương Tây vào năm 1853, thì các nước khác lại biến thành thuộc địa theo đúng nghĩa khó chịu của từ này.

Chính bởi vậy, ta có thể đặt một cái tên đậm chất điện ảnh cho việc chỉnh tâm hiện nay và gọi thẳng nó là “sự trở lại của trung Quốc”. Chàng khổng lồ mới đang tìm kiếm sự công nhận vẫn chưa có đủ mọi phương tiện để leo lên vị trí này nhưng sẽ phải tìm cách không làm mếch lòng bất kỳ nước nào trong số 15 nước láng giềng gần kề, trong đó 4 nước có ảnh hưởng tới Trung Quốc, xếp theo mức độ từ nhẹ nhất cho đến mạnh nhất là Ấn Độ, Nga, Nhật Bản và Mỹ. Bởi không cần phải là nhà địa lý mới nhận ra khi nhìn dù mảnh nhỏ nhất của bản đồ Thái Bình Dương rằng Mỹ đang kiểm soát chặt chẽ không chỉ đường biên giới biển của Trung Quốc mà còn cả đường biên giới khác của các nước châu Á. Sẽ chính xác hơn khi nói về nhiều châu Á thay vì chỉ nói về một châu Á.

Ở đây ta có thể cho rằng những châu Á này, châu Á của Đông Á và Đông Nam Á - Nam Á đặt ra vấn đề khác do sự biệt lập của Ấn Độ Dương, Trung Á, ngay gần trái tim Trung Hoa có 2 nước đang có chiến tranh tại khu vực biên giới giáp với Trung Quốc: Aphanistan và Cachemire, và một số nước khác đang sôi sục kiểu tiền, hậu hay đơn thuần là cách mạng - không thể làm gì khác ngoài việc dõi theo đất nước vốn điềm tĩnh không e ngại sự chế diễu tiếp tục mang cái tên Trung hoa (Zhongguo) đất nước (guo) ở trung tâm (zhong), và không chỉ là trung tâm (ở giữa, trung, vừa vặn…), tại Đông Á ai cũng biết điều đó. Những châu Á ư? Đúng vậy, bởi châu Á không tồn tại tự thân, đó chỉ là từ mà những người không phải châu Á sử dụng để chỉ một tập hợp rộng lớn và không rõ ràng các lãnh thổ và dân tộc độc lập.

Sự say mê đối với Trung Quốc, như đã nêu ở trên chỉ là mới đây, trong vòng chưa đầy 30 năm. Từ thời Mao Trạch Đông cho đến năm 1976 và tới thời học thuyết Đặng Tiểu Bình được thực thi hai lần để khăng định mình - trước tiên là cuối năm 1978 phái chính trị theo đường lối cải cách trong nước và mở cửa lên năm quyền, và sau đó là tháng 7!1992 khi xác nhận loại bỏ lớp bảo thủ già cỗi -, toàn thế giới hoan nghênh thành công của mô hình “đường bay của các con vịt trời” mà nhiều nước láng giềng của Trung Quốc đi theo các “con rồng nhỏ”, tiếp theo Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan là những nước đầu tiên cất cánh theo quỹ đạo của Mỹ, và Singapore nhờ nằm giao giữa Hongkong, Luân Đôn và giới tư bản Hoa Kiều hải ngoại.

Tuy nhiên Nhật Bản vẫn là một trở ngại nặng ký và quan trọng đối với việc xây dựng hai tiêu điểm của quá trình chỉnh lại tâm như đã đề cập ở trên. Nhật Bản đã thành công để không bị biến thành thuộc địa của châu Âu và lâu nay tìm cách trở thành cường quốc có khả năng cạnh tranh, còn nếu không thì phải là vượt qua phương đây. Điều này đã đưa Nhật Bản tới những cuộc mạo hiểm gây nỗi e sợ trong giai đoạn 1941-1945 cho tới tận bờ Úc Châu. Sau Đại chiến Thế giới thứ hai, phong trào chống Mỹ biến mất để nhường chỗ cho phong trào chống chủ nghĩa cộng sán, Nhật Bản trong một thời gian bị bao phủ bởi logic này. Các vụ tranh chấp lãnh thổ đối với các hòn đảo (Kouriles, Senkaku, Guam. . . ) được Nhật Bản sử dụng làm tấm lá chắn. Nhưng với sự tiếp tay tích cực và kín đáo của Mỹ, bất chấp các điều khoản của một Hiến pháp vì hòa bình Nhật Bản đã dần trang bị cho mình một mạng lưới các lực lượng được quân sự hóa và các công nghệ quân sự chủ chốt được mua sắm từ nguồn ngân sách dồi dào, một trong những nguồn ngân sách lớn nhất thế giới, có thể ở vị trí thứ hai sau Mỹ và trước Trung Quốc. Sức mạnh kinh tế của Nhật Bản rất đa dạng và do đó đây được coi là một dạng tàu sân bay rất tân tiến, có cư dân thuần nhất, tóm lại là một quốc gia phương Bắc nằm ven biển một châu Á nhìn tổng thể còn kém phát triển hay bắt đầu vượt qua giai đoạn kém phát triển.

Nhật Bản có thể có vị trí nào trong trật tự thế giới mới, nếu không lựa chọn châu Á là nơi chiếm một nửa hoạt động ngoại thương của mình? Quá trình xây dựng một học thuyết châu Á mới gợi lại những kỷ niệm không hay tồn tại một thế kỷ…, điều này không làm đơn giản mọi điều. Ngoài ra, liệu Nhật Bản có bị o ép giữa trung Quốc và Mỹ? Chừng nào Nhật Bản còn có thể chấp nhận coi mình thuộc về phe phương Tây để có thể sống sót trước chủ nghĩa cộng sản - và với gánh nặng “tội lỗi của mình” -, Trung Quốc chỉ có thể tìm cách duy trì sự lệ thuộc của Nhật Bản và nhất là phong toả mọi con đường đi đến Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc của nước này. Nếu Nhật Bản phải “châu Á hóa”, Nhật Bản sẽ không còn như trước. Dường như Nhật Bản sẽ không có được tự do vận động nhiều hơn. Nhưng ít ra cả thế giới sẽ có thể tìm ra trong sự lệch tâm này một tia hy vọng về sự hình thành mang tính giả định một thế giới đa cực trong tương lai, một thế giới mà mỗi người đều hy vọng sẽ an bình hơn là một thế giới lưỡng cực.

Không có lệch tâm nếu không có sự trỗi dậy nhanh chóng của tâm mới

Từ những năm 1960, hâu Á có bước phát triển đáng kinh ngạc trong nền kinh tế thế giới, đủ cho.châu Á cuối cùng lại bị các nước khác bắt kịp do cuộc khủng hoảng toàn cầu bắt nguồn từ Mỹ vào tháng 9/2008. Năm 2007, châu Á còn chiếm tới 25% GDP thế giới, tức tăng gấp đôi so với năm 1960. Năm 2009, châu Á ngang ngửa với hai khu vực lớn khác của thế giới. Bắc Mỹ (Canada, Mexico, Mỹ, 31% GDP thế giới) và liên minh châu Âu (27 quốc gia thành viên, 30%). Châu Á là khu vực năng động nhất nhưng không đủ tạo ảnh hưởng để kéo theo tất cả các nền kinh tế khác trên hành tinh. Chính nhờ các luồng trao đổi thương mại xuyên thái Bình Dương từ những năm 1975 cho đến khi kết thúc chiến tranh Việt Nam, đã giúp châu Á có vị trí cao hơn châu Âu và các luồng trao đổi thương mại xuyên Đại Tây Dương. Do đó, chính những lượng hàng hải giữa Bắc Mỹ (Mỹ, Canada, Mexico) và châu Á đã vượt lên trên các luồng giao dịch xuyên Đại Tây Dương (giữa Bắc Mỹ và châu Âu) còn các luồng giao dịch xuyên lục địa (giữa châu Á và châu Âu) đã vượt trên các luồng giao dịch lịch sử xuyên Đại Tây Dương. Còn một nghịch lý khác ; đó là hai quốc gia lớn “bại trận” là Nhật Bản đã vượt qua Đức khoảng năm 1970 hai nước nảy trở thành đầu tàu, được tiếp sức bởi các “con rồng” (Hongkong, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapour), và theo sau các con rồng này là các “con hổ” đi nối đuôi nhau (Thái Lan, Malaisia, Indonesia, Philippin) trong những năm 1980.

Làm lệch tâm có điều kiện và phi tuyến tính

Không thể có bất kỳ sự dịch chuyển từ tâm này sang tâm khác nếu như Trung Quốc năm 1990 và tiếp đó là Ấn Độ năm 2000 không chuyển động. Đây là một ví dụ rất sinh động trong địa lý về sự thay đổi tỷ lệ cần thiết để một sự nghiệp cụ thể nào đó có thể tạo ra tác động thực sự? Nhưng điều này lại không có ý nghĩa gì bên cạnh những sự vận động ngẫu nhiên rủi ro có thể xảy ra: trong quá trình dịch chuyển tâm so với sự vận động như cam kết, cuộc khủng hoảng châu Á 1997-98 bất ngờ xảy ra làm chệch đường cong dịch chuyển tâm, do đó làm lệch tâm phi tuyến tính, một dạng chênh lệch lớn trong thời gian thiên về Trung Quốc.

Cuộc khủng hoảng, vốn không chừa Trung Quốc và Việt Nam vì đồng tiền của hai quốc gia này không có khả năng chuyển đổi, đã làm đứt đoạn quá trình vươn lên của khu vực và ngay lập tức đem lại một bài học: ưu tiên cho các cân bằng bên ngoài và tích luỹ dự trữ ngoại hối để đối phó với những vận động thất thường của dòng vốn; tăng trưởng nhờ xuất khẩu; không chú ý đến tiêu dùng của các hộ gia đình. Trung Quốc ít bị tác động nhưng vẫn có những biệt pháp quyết liệt trong giai đoạn 1997 - 2007, làm giảm tỷ trọng tiêu dùng trong GDP từ 47% xuống còn 37%. Những hạn chế chi tiêu lại được trợ lực bởi xu hướng tiết kiệm của các công ty châu Á đã khoét sâu sự mất cân đối thương mại khổng lồ với Mỹ ngay từ năm 2004. Xuất khẩu các sản phẩm chế tạo đã làm tăng thặng dư thương mại và cho phép Trung Quốc tích trữ lượng ngoại tệ khổng lồ (l946 tỷ USD tính đến cuối năm 2008 !). Trung Quốc liệu có thể làm gì khác ngoài việc đem đôla, đồng tiền dự trữ, đi đầu tư (585 tỷ trái phiếu Kho bạc của Mỹ !), và sử dụng nguồn dự trữ ngoại hối mà Trung Quốc chưa bao giờ có thể đạt được trong khoảng thời gian ngắn như vậy? Trên thế giới người ta nghe nói trong nhiều thập kỷ rằng để thoát khỏi tình trạng kém phát triển đòi hỏi trước hết phải có các phương tiện để hình thành tư bản (theo trường phái tự do) hoặc tiến hành tích luỹ nguyên thuỷ theo trường phái Marxism). Nếu không, châu Phi, châu Á và Mỹ latinh sẽ còn nghèo khổ trong thời gian dài… Và rồi Mỹ, trong một dạng “kế hoạch Marshall” phân tâm theo kiểu mới, đi ngược lại mong muốn sâu kín của mình, tự do cho phép những người Trung Quốc nghèo khó tài trợ cho tiêu dùng các hộ gia đình và thâm hụt công của những người Mỹ giàu có! Nghịch lý thay! Thêm một sự thông đồng giữa Mỹ và Trung Quốc: trong khi các nước châu Á kể cả rồng và hổ với đầu tàu là Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, đổ xô vào những sự bất cân bằng này thông qua việc xuất sang Mỹ những sản phẩm của các nhà máy liên doanh của mình (đồng góp vốn) đặt tại Trung Quốc!

Trung quốc và các nước mới nổi

Nhờ số tiền kiếm được từ Mỹ, Trung Quốc trở thành tác nhân kinh tế quan trọng tại Mỹ latinh, đối tác thương mại lớn thứ ba của tiểu châu lục. Tới năm 2014-2015, Trung Quốc sẽ chiếm vị trí của Liên minh châu Âu. Tại hội nghị thượng đỉnh lần thứ hai của nhóm BRIC (Brasil, Nga, An Độ, Trung Quốc) vào tháng 4/2010 tại Brasilia, 26 % diện tích hành tinh, 32 % diện tích đất nông nghiệp, 42 % số dân, 15% GDP toàn cầu cùng quy tụ. Không cần phải có năng khiếu tính nhẩm mới có thể thấy rằng 15% GDP đặt ra những vấn đề thực sự, nhất là khi so sánh với tỷ lệ 42% dân số. Người ta nhận thấy ở đó manh nha một phần những khó khăn của thế giới trong tương lai nếu như không có gì thay đổi. Nhưng bỗng thêm một yếu tố dẫn dắt một chút sự vận động: tỷ trọng của những nước nhóm BRIC trong thương mại quốc tế tăng từ 7,2% năm 2000 lên 15% năm 2009. Kết quả tăng gấp đôi này có phân bố đồng đều? Không: tỷ trọng xuất khẩu của riêng Trung Quốc trong xuất khẩu toàn thế giới giai đoạn này đã tăng từ 3,9% lên 10%. Nhân cuộc họp giữa các nước BRIC, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào lần thứ hai gặp gỡ Tổng thống Lula của Brasil. Vì những trao đổi các bên cùng có lợi? Đúng vậy. Nhưng một cách không cân xứng. Mỹ latinh cung cấp nguyên liệu năng lượng (94 % lượng bán của Venezuela) và nông sản (80 % lượng bán của Argentina). Năm 2009, Trung Quốc trở thành đối tác thương mại hàng đầu của Brasil, vượt cả Mỹ, nhờ kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc tăng gấp 15 lần tính từ năm 2000. Nhưng năm 2009, 3/4 trong số đó liên quan đến 3 sản phẩm: quặng sắt, dầu lửa và đậu tương.

Những e ngại bắt nguồn từ Brasil. Các ngân hàng chịu tác động do giá đồng Nhân dân tệ Trung Quốc bị định giá thấp còn đồng nội tệ real lại tăng giá. Nhưng không hẳn là vấn đề tiền tệ, Nam Mỹ, nhất là Argentina lo ngại về sự năng động của Trung Quốc trong hoạt động xuất khẩu trên lãnh địa của mình. Những sự ganh đua khác xuất hiện trong cuộc đối đầu qua các doanh nghiệp trung gian trong “cuộc chiến sắt” mà 3 tập đoàn mỏ lớn tiến hành là tập đoàn Anh-Úc Rio Tinto, BHP Billiton và Vale của Brasil, tập đoàn số một hiện nay với 33% tổng sản lượng thế giới, nhằm yêu cầu tăng gấp đôi giá quặng mà Trung Quốc hiện là đối tác tiêu thụ lớn. Người Trung Quốc đã phải chấp nhận thoả hiệp. Nhưng tình hình bắt đầu thay đổi. Tháng 4/2010, 65 doanh nghiệp Trung Quốc công bố ý định đầu tư vào Brasil và một số nơi khác. Sinopec tham gia khai thác dầu mỏ. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào sẽ thăm cảng xuất khẩu sắt, tham gia góp vốn và đổi lại sẽ được đảm bảo giao hàng trong 20 năm. Trung Quốc sẽ tham gia đấu thầu xây dựng tuyến đường sắt cao tốc giữa São-paulo và Rio. Tháng 4/2010, Brasil rất hài lòng nhận thấy kim ngạch xuất khẩu đậu tương, quặng sắt và dầu mỏ sang Trung Quốc đã tăng gấp 15 lần kể từ năm 2000. Nhưng nước này lại cảm thấy như bị lường gạt khi đồng tiền của mình, vốn bị định giá quá cao, lên giá so với đồng đôla, và do đó so với cả đồng Nhân dân tệ vì đồng Nhân dân tệ điều chỉnh theo đồng đôla với tỷ giá cố định. Mỗi vấn đề lại làm nảy sinh một vấn đề khác… Người Trung Quốc luôn dễ dàng tìm ra lời giải đáp: khủng hoảng là do đồng đôla và nền tài chính Mỹ.

Những bài học đầu tiên từ cuộc khủng hoảng 2008: “không tách cặp”

Cũng giống như ngay sau sự kiện tháng 9/2001, đa phần các nước châu Á có vẻ ít bị tác động bởi việc các Tháp đôi bị phá huỷ và tình hình tài chính của những nước này vẫn rất dồi dào, đầu tư nước ngoài đổ dồn từ châu Âu và cả châu Mỹ, khu vực đã và sẽ thu hút 20% tổng lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn 1990-2010. Người ta bắt đầu nói rằng châu Á nhìn chung - có thể đã trở thành một cực tăng trưởng độc lập. Nói một cách khác, trong trường hợp khủng hoảng ở Mỹ, châu Á có thể sẽ trở thành con trâu thế chỗ được mắc vào cỗ cày thế giới. Trung Quốc và Ấn Độ, do tầm quan trọng của thị trường nội địa, dường như có khả năng làm tiêu tan các cú sốc hơn nữa việc tăng cường các hoạt động trao đổi nội Á có vẻ làm giảm sự phụ thuộc của châu lục vào bên ngoài.

Chao ôi! Cuộc khủng hoảng thế giới giữa năm 2008 cho thấy sự độc lập về tài chính giữa châu Á và phần còn lại của thế giới lớn hơn so với những gì ta nghĩ. Tại sao? Bởi vì ngay cả khi ít phải hứng chịu “độc tố”của khủng hoảng tín dụng địa ốc “subprimes” các nước châu Á phải chứng kiến các nhà đầu tư nước ngoài khẩn cấp chuyển vốn về nước để bịt kín những lỗ hổng trong hệ thống của họ. Các doanh nghiệp thuộc châu thổ Châu Giang gửi trả những nông dân về nông thôn, các chủ doanh nghiệp mạo hiểm phá sản và người Trung Quốc thậm chí thấy không cần phải yêu cầu các nhà tư bản của thế giới giàu có bồi thường do dừng hợp đồng dù rằng các nhà tư bản cũng sẽ không muốn cũng như không thể chi trả. Tình trạng này diễn ra tại tất cả các nước trong khu vực. Nhưng cách xử sự như vậy luôn để lại dấu vết… Thiếu tín dụng là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra đối với một nền kinh tế mở.

Cú thứ hai gõ cửa châu Á. Cuộc khủng hoảng năm 2008 kéo dài làm sụt giảm nghiêm trọng cầu từ Mỹ và châu Âu. Giảm nhập khẩu do đó các nền kinh tế, hãy thận trọng với phương Tây! Đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ bị tác động trong hoạt động xuất khẩu do hàng bị tắc nghẽn tại các bến cảng. Không phải là lúc giải thích tại sao Ấn Độ, đất nước có mức tiêu dùng hộ gia đình chiếm đến 63% GDP, lại chịu tác động giống như Trung Quốc nơi tiêu dùng hộ gia đình chỉ chiếm 37%. Mà trong cả hai trường hợp, việc tạm dừng các dự án đầu tư đều diễn ra rất nhanh. Do đó, vì 40% hoạt động sản xuất công nghiệp của Trung Quốc có gắn với xuất khẩu, nên việc giảm xuất khẩu ngay lập tức, thậm chí ngay trong ngày khiến Trung Quốc phải huỷ việc nhập khẩu từ Nhật Bản và Hàn Quốc là nguồn cung cấp phần lớn đầu vào cho các nhà máy sản xuất để xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Và Nhật Bản cũng như Hàn Quốc đến lượt mình rơi vào khủng hoảng với sự sụt giảm của Thị trường chứng khoán đồng tiền tăng giá (đồng yên và đồng won), các tài sản tài chính mất giá. . .

Những bài học khác từ khủng hoảng

Như vậy, rõ ràng châu Á không tự chủ và không có khả năng làm suy yếu bất kỳ cuộc khủng hoảng nào. Đúng là hơn cả Nhật Bản và các quốc gia trung bình khác trong khu vực (Hàn Quốc, Thái Lan nếu Thái Lan không trong tình trạng đình đốn về chính trị), Ấn Độ và Trung Quốc trong năm 2010 sẽ phục hồi trở lại bắt đầu từ thị trường nội địa, đây là điều tuyệt vời đối với các gia đình Trung Quốc và đối với quá trình hiện đại hoá toàn diện một quốc gia (tài trợ các cơ sở hạ tầng, mua sắm ở nước ngoài. . .). Và thế là Trung Quốc một lần nữa đến gần con số 9% tăng trưởng mỗi và lại nhẹ bước hướng tới quá trình chỉnh lại tâm. Ấn Độ song hành cùng Trung Quốc với tốc độ tăng trưởng cao là 7%. Mọi hoạt động sản xuất đều tiến triển. Nhưng vẫn tồn tại sự yếu kém về cơ cấu: châu Á chỉ hiếm 18% tổng mức tiêu dùng của thế giới. Dành cho.ai? Cho 40% dân số thế giới (EU 36% Bắc Mỹ 35%). Đối với người này, đó điều bất công “nhỏ” nhưng người khác lại cho rằng đó là sự mất cân đối “nhỏ” đáng tiếc. Có thể rút ra một bài học quan trọng bổ sung cho cách ứng xử của châu Á trong khủng hoảng. Để đạt được trình độ gần với trình độ các nước giàu có phía Bắc, châu Á buộc phải lao vào một cuộc đua liên tiếp. Cuộc đua này sẽ càng dễ dàng và ít tốn kém hơn đối với các nguồn lực có thể cạn kiệt của hành tinh chừng nào các nước giàu tiết kiệm nhiều hơn và tiêu dùng ít hơn. Nhưng liệu các nước giàu có khả năng kìm hãm sự thèm muốn của mình không?

Một thế giới toàn cầu hóa, thế giới hoàn toàn phẳng hay dựng lên các đường biên?

Dù ta có biểu thị mọi điều theo cách nào đi nữa thì châu Á năm 2010 đang trên đường hướng tới tương lai tươi sáng hơn. Tất cả châu Á ư? Chắc chắn là không. Bản đồ địa lý nếu được lập có chất lượng, thì thật tàn nhẫn. Nhưng nó phụ thuộc rất nhiều vào các dữ liệu được cung cấp cho người vẽ (ngày nay ta không còn nói về người vẽ bản đồ nữa mà là nhà thiết kế đồ họa). Tìm thấy những nguồn dữ liệu đáng tin cậy là một khó khăn thực sự vì những lý do được biết bấy lâu và vượt quá khuôn khổ luôn không chắc chắn của các nhà thống kê.

Tương lai tươi sáng hơn liệu có phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Câu trả lời là có bởi vì nhờ hoạt động sản xuất gia tăng như đã chứng kiến, tốc độ tăng trưởng cho phép nâng cao mức tiêu dùng chung và từ đó giúp giảm nghèo đói, đưa tình trạng nghèo khổ xuống mức ít gây khó khăn hơn cho các gia đình. Nó cho thấy các dịch vụ việc làm và đầu tư một phần mang tính xã hội đều tăng nhanh. Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng là dấu hiệu cho thấy sự tiến bước hướng về tương lai tươi sáng hơn. Ít ra là trong việc làm thoả mãn các nhu cầu tối thiểu.

Nhưng điều này không diễn ra trong bình lặng và sự hoà hợp ở khắp mọi nơi. Không thể xem xét kỹ càng tất cả các nước châu Á đang gặp các vấn đề lớn: Lào, Miến Điện, Timor, hay trong tình trạng bấp bênh: Malaisia, Philippines, Cam-pu-chia, Indonesia. Nhiều nước trong số này đang gặp những rắc rối báo hiệu sẽ có sự thay đổi tất yếu trong trung hạn. Thái Lan rơi vào tình trạng khẩn cấp ngày 8/4/2010. Thái Lan không tăng trưởng nữa, Singapore và Malaisia cũng vậy. Nhưng còn một vấn đề quan trọng hơn là tình trạng hiện nay của các nước: đó là vấn đề thời gian, hay đúng hơn là vấn đề độ dài. Trung Quốc và một số quốc gia khác trong khu vực, theo cách mà ngày nay tỏ ra vững chắc, bước vào phong trào bền vững. Do sự pha trộn ngày càng lớn giữa các dân tộc. khái niệm về độ dài thời gian ngày càng trở nên thiết yếu trong quan hệ quốc tế. Đó là một câu hỏi mà tất cả các tinh hoa của các nước châu Á đặt ra cho mình bởi nó quyết định đặc điểm của quá trình làm lệch tâm đang diễn ra hay để nói rõ hơn là quyết định sự chuyển dịch từ từ trung tâm của thế giới từ Âu-Mỹ sang châu Á và ta có thể phát biểu một cách thô: Tổng thống Obama sẽ kéo dài trong bao lâu? Người da nào còn trắng hơn cả người da trắng sẽ có thể ngồi ở vị trí hiện nay của ông Obama trong hai hay sáu năm nữa?

Nguồn:
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Người tạo nên vụ Big Bang 80 năm trước ở Sài Gòn

    27/03/2020Nguyên NgọcNgày 24/3 này, chúng ta có một kỷ niệm lớn: 80 năm ngày mất của Phan Châu Trinh, và sau đó mấy hôm, ngày 4/4, kỷ niệm 80 năm đám tang vĩ đại của ông, mà Nguyễn Ái Quốc trong báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản hồi ấy đã viết là "trong lịch sử người An Nam chưa hề được chứng kiến một sự kiện to lớn như vậy bao giờ"...
  • Giá trị châu Âu và những gợi ý cho sự phát triển

    10/07/2019Hồ Sĩ QuýVài năm gần đây, hình ảnh về một Châu Âu già nua (Old Europe, Secular Europe) thường ám ảnh các nhà chính trị và các nhà hoạt động xã hội xã hội Châu Âu. Thật ra đây là một định kiến thiếu công bằng và không mấy sáng suốt, nhất là đối với những người ở ngoài khu vực Tây Âu tin vào định kiến này. So với Phương Tây ngoài Châu Âu và so với các khu vực khác mới nổi thì đúng là Châu Âu đã già nua. Nhưng già nua đâu có phải là các giá trị Châu Âu đã lỗi thời. Bài viết này cố gắng đưa ra một cái nhìn như vậy.
  • Bí ẩn Châu Á trong tấm gương triết học Châu Á

    25/12/2017Hồ Sĩ QuýTriết học Châu Á hay là triết lý Châu Á không phải là một khái niệm triết học. Đây chỉ là một cách gọi tương đối. Nó khá mơ hồ, không đủ rõ ràng, không có nội hàm xác định, càng không được hiểu như nhau trong mọi văn cảnh. Nếu coi là một khái niệm triết học, thì triết học Châu Á còn mơ hồ hơn cả khái niệm triết học phương Đông...
  • Nhìn lại phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục

    05/07/2017Nguyễn Trọng TínBỏ lối học từ chương khoa cử, tập trung cho thường thức và thực nghiệm, dạy cả tiếng Việt, Pháp và Hán văn. Chủ trương này lại xuất phát từ tầng lớp nho gia cuối cùng của Việt Nam. Không chỉ thế, chấn hưng công thương, khai mỏ, lập đồn điền, cắt tóc, xuất dương du học… cũng là chủ trương của họ. Dù chỉ tồn tại trong 9 tháng (5.1907 – 1.1908), nhưng trường Đông Kinh Nghĩa Thục thực sự là đỉnh cao của cuộc cách mạng xã hội to lớn đầu thế kỷ 20 có tên là Duy Tân
  • Quan niệm giáo dục “Tự Tân” của Phan Bội Châu

    28/10/2014TS Dương Thiệu TốngNhững từ tưởng và hoạt động giáo dục của cụ Phan Bộ Châui suy ngẫm về các vấn đề canh tân văn hóa giáo dục, canh tân xã hội đáng để chúng ta quan tâm đến...
  • Vấn đề giá trị quan Châu Á: nghiên cứu so sánh Châu Á và phương Tây

    18/10/2014Hồ Sĩ QuýNgười Châu Á coi “cần cù, yêu lao động” là giá trị hàng đầu của sự làm người. Nhưng người Mỹ lại coi "tự lực cánh sinh"' mới là giá trị đáng quý nhất, cần cù cũng được coi trọng nhưng chỉ đứng thứ ba sau “tự lực cánh sinh và thành đạt cá nhân”...
  • Tư tưởng canh tân sáng tạo nền văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX của chí sĩ Phan Châu Trinh

    26/09/2014Đỗ Hòa HớiVới sự nghiệp đổi mới, vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa và hiện đại hóa văn hóa dân tộc đang thu hút sự quan tâm của nhiều người. Qua tìm hiểu chí sĩ Phan Châu Trinh, chúng tôi thấy ông là một tấm gương mạnh dạn canh tân và sáng tạo nền văn hóa dân tộc vào thời điểm đầu thế kỷ XX.
  • Lại bàn về những giá trị sống

    19/06/2014Nguyễn Trần BạtAnh là một mẫu mực, giống như cách anh nói, anh muốn đi tìm hiểu đời sống tinh thần của những người thành đạt, những người nổi tiếng để hiểu thêm họ như một cái gì đó để hướng theo. Anh vẫn nói là không muốn trở thành một người giảng dạy chuyên nghiệp, nhưng đối với tôi và đối với những giáo viên ở khoa chúng tôi cũng như các sinh viên ở đây thì anh vẫn là một người thầy...
  • Ý nghĩa lịch sử của tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh

    07/06/2014Nguyễn Đức SựSự thực, chủ nghĩa cải lương của Phan Châu Trinh là một hiện tượng nổi bật trong xã hội Việt nam vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Nó chứng tỏ Phan Châu Trinh rất quan tâm đến sự tiến bộ và tương lai của nước nhà. Chính vì vậy mà ông muốn cải tạo xã hội Việt Nam lúc đương thời theo con đường cải lương...
  • Hình thái châu Á (phương thức sản xuất kiểu châu Á) và chủ nghĩa xã hội

    30/12/2009Igor Nikolaevich KovalevSách Lịch sử kinh tế và các học thuyết kinh tế được Igor Nikolaevich Kovalev trình bày theo phong cách mới, trong đó tác giả sắp xếp kiến thức về lịch sử kinh tế học một cách hệ thống, liên kết phương diện xã hội nhân văn và phân tích toán học với chuyển biến lịch sử. Trong sách này, tác giả dành phần lớn phân tích giai đoạn phát triển kinh tế xã hội nước Nga xô-viết dưới ảnh hưởng trực tiếp của chủ nghĩa Marx. Bài viết dưới đây được trích dịch từ đề mục: “Chủ nghĩa Marx như một mô hình ngôi nhà thế giới về kinh tế”, có thể cung cấp thông tin hữu ích cho những người quan tâm đến chủ nghĩa Marx.
  • Toàn cầu hóa và thay đổi chính trị

    05/11/2009Cao Huy ThuầnCác nước Tây phương tin rằng quá trình toàn cầu hóa sẽ làm thay đổi chế độ chính trị trong các nước chuyên chế khiến các nước này trước sau gì rồi cũng phải xuôi theo trào lưu dân chủ. Trước sau gì toàn cầu hóa kinh tế cũng đưa đến toàn cầu hóa chính trị, bởi vì dân chủ và thị trường có khuynh hướng đi kẹp đôi với nhau như một cặp bài trùng. Luận cứ đó ngây thơ chăng? Vững chắc chăng?
  • Văn minh luận

    21/10/2009Phạm QuỳnhVăn minh là đối với dã man. Chữ “văn minh” là một chữ mới. Tuy trong kinh Dịch đã có câu, nhưng dùng theo nghĩa mới để dịch chữ Tây civilisation thời mới bắt đầu tự người Nhật Bản. Người Nhật dùng trước (đọc là bunmei), người Tàu theo sau, rồi người ta bắt chước, ngày nay thành một chữ rất thông dụng.
  • "Nhất châu Á"

    02/05/2009TS. Nguyễn Sĩ DũngCuối cùng, chúng ta cũng có một cái gì đó được thiên hạ (cụ thể là Tổ chức tư vấn về rủi ro chính trị và kinh tế - PERC) đánh giá là nhất châu Á! Và đó là... cái sự "khó tính và gây trở ngại" của đội ngũ công chức. Đây là một sự nổi tiếng ngang ngửa với tai tiếng, một "giải thưởng Mâm xôi vàng" cho các công chức Việt Nam.
  • Cải cách và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa

    13/04/2008Nguyễn Trần BạtMột khi coi cải cách là công cụ phát triển chủ động của con người cũng tức là đòi hỏi con người phải nhận thức được giới hạn của cải cách. Nghiên cứu về cải cách hay cơ sở lý luận của cải cách có ý nghĩa vô cùng quan trọng, vì nó chứng minh sự cần thiết phải tiến hành cải cách thường xuyên và liên tục...
  • Cấu trúc Chính trị Toàn cầu

    13/11/2007SorosTheo sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, người ta nói nhiều về cấu trúc tài chính toàn cầu. Hầu như không có thảo luận nào về cấu trúc chính trị toàn cầu. Đây là một sự bỏ sót kì lạ, căn cứ vào nền chính trị quốc tế đầy rẫy xung đột, và các dàn xếp được nghĩ ra để giải quyết chúng là yếu hơn nhiều so với vũ đài tài chính...
  • Khủng hoảng Tài chính 1997-1999

    13/11/2007SorosKhủng hoảng tài chính khởi đầu ở Thái Lan năm 1997 đã đặc biệt làm bực mình vì qui mô và tính khốc liệt của nó. Ở Soros Fund Management chúng tôi đã có thể thấy một khủng hoảng đến sáu tháng trước như những người khác, nhưng mức độ trục trặc làm cho mọi người ngạc nhiên...
  • Châu Á phục sinh

    17/05/2007Vũ Sơn ThủyTất cả, như đã nói rằng vào thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI, Châu Á đang đẩy toàn bộ sự đói nghèo, lạc hậu, bạc nhược và tủi nhục vào quá khứ để bước lên sân khấu chính trị toàn cầu và phát đi một tương lai đầy hứa hẹn về sự phục sinh nền văn minh chói lọi một thời.
  • Cẩm nang quyền tác giả Châu Á

    03/01/2007Tamotsu HozumiCuốn Cẩm nang Quyền tác giả khu vực Châu Á này được chuẩn bị và xuất bản cho những người sống ở các nước Châu Á, đặc biệt là cho những người trực tiếp liên quan đến việc xuất bản sách như người biên tập, nhà văn, họa sĩ vẽ minh họa, nhà nhiếp ảnh... để cung cấp cho họ những khái niệm và kiến thức cơ bản về quyền tác giả cũng như những ứng dụng của nó...
  • Giá trị Châu Á trong thế kỷ XXI

    21/12/2006Kim Jae YoulSự sống dậy của truyền thống Khổng giáo qua CNTB Khổng giáo bắt đầu hấp dẫn nền kinh tế thế giới. Khi mà thế giới thế kỷ XXI bắt đầu phát hiện lại Đông Á, thì giới trí thức Đông Á lạibắt đầu tự ý thức để đưa ra những giá trị và cả tính Đông Á như một sự hoán đổi cho văn hóa thế giới trong thế kỷ XXI.
  • Ảnh hưởng của “Tân thư” trong tư tưởng Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh

    17/07/2006PGS. PTS. Lê Sĩ ThắngĐối với các nhà nho Việt Nam yêu nước hồi đầu thế kỷ - những người đã từng bị Nho giáo bưng tai bịt mắt, đã thấy được ở một chừng mực nào đó sự lạc hậu của nhà trường Nho giáo và đang khao khát giải thích nhiều vấn đề có liên quan đến sự nghiệp giải phóng dân tộc, thì “Tân thư" đã có sức hút mãnh liệt...
  • Về giá trị và giá trị Châu Á

    22/02/2006Hồ Sĩ QuýTác giả đã phân tích những giá trị truyền thống Châu Á trong bối cảnh thế giới đương đại và có sự đối sánh với những hệ giá trị khác, tổng hợp những quan điểm điển hình của một số học giả có uy tín trong và ngoài nước về lĩnh vực này, luận giải mối tương quan giữa những giá trị truyền thống Châu Á và nền văn hoá Việt Nam...
  • Ảnh hưởng triết học phương Tây trong quan niệm của Phan Bội Châu về con người

    22/10/2005Đỗ Thị Hoà HớiPhan Bội Châu là người có vị trí đặc biệt trong lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX. Ông được coi như chiêc cầu nối giữa truyền thông và hiện đại. Trong tác phẩm Nhân sinh Triết học, về nền học vấn của phương Đông, trên cơ sở những giá trị dân tộc, Phan Bội Châu đã biết cách tiếp nhận những giá trị hiện đại của triết học phương Tây, đặc biệt là vấn đề phương pháp để làm mới quan niệm về con người. Trong tác phẩm này, nghiên cứu về con người của ông được sử dụng qua các khái niệm nhân thể, nhân tính, nhân dục, nhân cách, nhân sự. Qua đó, ông khẳng định những giá trị truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam, đồng thời, kêu gọi nhân dân biết cách giữ lấy giá trị truyền thông cũng như tiếp nhận những giá trị mới phù hợp của thời đại để đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người...
  • Singapore muốn trở thành New York của châu Á

    10/02/2003Singapore, quốc đảo xinh đẹp và nhỏ bé của Đông Nam Á đang có kế hoạch vươn mình trở thành một trong những thành phố năng động ngang tầm với London, New York và San Francisco.
  • Châu Á với vấn đề toàn cầu hoá giáo dục

    10/02/2003Trên thế giới, cải cách giáo dục hiện nay được xem là rất cần thiết cho thành quả kinh tế. Sự phồn thịnh kinh tế của một quốc gia tùy thuộc vào chất lượng của hệ thống giáo dục quốc gia đó. Mặc dù nhu cầu giáo dục sáng tạo chỉ mới chớm nở ở châu Á nhưng các chính phủ cũng đã quan tâm và chuẩn bị nhập cuộc toàn cầu hóa giáo dục. Từng quốc gia đã ráo riết cải cách chế độ giáo dục theo hướng toàn cầu hóa để tránh bị tụt hậu so với các quốc gia khác.
  • Trường lớp châu Á

    10/02/2003Dự đoán của hai báo Asiaweek và The Christian Science Monitor về viễn cảnh trường lớp châu Á sẽ thay đổi ra sao trong thế kỷ tới
  • xem toàn bộ