Tính minh bạch

05:11 CH @ Thứ Sáu - 01 Tháng Bảy, 2016

Phóng viên (PV): Thưa ông, tại sao tính minh bạch lại là yếu tố quan trọng nhất để phát triển trong thời đại hội nhập?

Nguyễn Trần Bạt (NTB): Minh bạch là một trong những nguyên lý quan trọng nhất để khẳng định sự lành mạnh của cả thể chế lẫn xã hội vì chúng ta đang sống trong thời đại mà khái niệm dân chủ được xem như một đặc tính chính trị. Nếu nhân dân không làm chủ được thì mọi việc đều không minh bạch. Nhân dân làm chủ không có nghĩa là chỉ có nhân dân cần cái quyền đối chất với nhà nước. Đó là một trong những khía cạnh quan trọng chứ không phải là tất cả, vì không phải chỉ có nhà nước mới cần minh bạch với nhân dân mà nhân dân cũng cần minh bạch với nhà nước và nhân dân phải minh bạch với nhau. Sự giao lưu giữa con người với nhau trong xã hội, sự giao lưu của hàng hoá ở trong một xã hội phải minh bạch, minh bạch phải trở thành một tiêu chuẩn chính trị phổ biến trên tất cả các chủ thể tham gia vào đời sống xã hội. Xưa nay chúng ta vẫn quan niệm rằng minh bạch là nghĩa vụ của nhà nước mà quên mất rằng minh bạch là nghĩa vụ của tất cả các bộ phận của xã hội.

Hơn nữa, chúng ta không chỉ cần minh bạch xã hội, minh bạch với nhau mà đất nước chúng ta, dân tộc chúng ta phải minh bạch với cộng đồng quốc tế, nhất là trong thời kỳ hội nhập. Người ta đang đề ra các bộ luật, các tiêu chuẩn chính trị của tất cả các hiệp ước song phương và đa phương về vấn đề minh bạch, người ta đòi hỏi tính minh bạch có chất lượng thời đại. Để làm gì? Để tránh những đầu tư vô ích vào sự không hiểu biết lẫn nhau. Các bạn thấy rằng thế giới vẫn có những Sách Trắng về Ngoại giao, Sách Trắng về Quốc phòng..., đó là một trong những biểu hiện rõ ràng của sự đòi hỏi về tính minh bạch, nó làm người ta không phải lo sợ về sự thất thiệt mà việc đầu tư do sự tưởng tượng, do sự nhầm lẫn mang lại.

PV: Xin ông cho biết mối quan hệ giữa minh bạch và phát triển, minh bạch và hội nhập được cụ thể hoá như thế nào?

NTB: Minh bạch là một đòi hỏi tự nhiên. Khi người ta yên tâm về nhau thì người ta có thể sống một cách bình yên. Ví dụ nếu nhà nước không minh bạch thì nhân dân buộc phải phán đoán. Sự phán đoán về sự xuất hiện của những chính sách khác nhau sẽ làm người dân do dự trước các quyết định của mình. Ví dụ, nhà tôi ở cạnh nhà anh, nếu anh minh bạch, tôi biết, tôi hiểu anh thì tôi yên tâm, tôi không phải thuê một người bảo vệ khi ở cạnh nhà anh. Những biểu hiện như thế là rất nhiều trong đời sống. Đôi lúc, báo chí, các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý của chúng ta giải thích đòi hỏi minh bạch theo quan niệm của nhà quản lý nhà nước mà không hiểu rằng minh bạch rộng hơn như thế và lợi ích cũng rộng hơn như thế. Gần đây chúng ta thảo luận về luật quản lý thuế, nếu minh bạch không trở thành một tiêu chí văn hoá cho mỗi một công dân, cho mỗi một hộ kinh doanh, cho mỗi một nhà kinh doanh thì quá trình đi thu thuế là một quá trình truy đuổi. Ông Dương Trung Quốc đã có một bài báo phê phán việc dùng từ "đánh thuế" khi Quốc hội thảo luận về các luật thuế. Tại sao người ta lại mô tả sự đi thu thuế là sự đánh thuế? Là vì người ta phải đuổi thì mới bắt được. Nhưng nếu minh bạch thì không phải làm gì cả hoặc là người ta có thể làm một cách nhẹ nhàng hơn, nó tạo ra ít nhất là vẻ yên ổn bên ngoài của đời sống xã hội và do dó, đời sống xã hội của chúng ta hấp dẫn hơn. Chúng ta hấp dẫn hơn thì chúng ta giải quyết được rất nhiều việc, tạo được rất nhiều cảm hứng, cảm hứng từ bên trong xã hội chúng ta và cảm hứng từ bên ngoài xã hội chúng ta nhìn vào.

PV: Từ trước đến nay, một số lĩnh vực của chúng ta vẫn chưa có tính minh bạch. Theo ông, sau khi gia nhập WTO thì những sức ép, những đòi hỏi không thể né tránh từ bên ngoài về sự minh bạch đối với Việt Nam là gì?

NTB: Tôi nghĩ rằng, tất cả sự chú ý của thế giới đối với tính minh bạch của xã hội chúng ta sẽ càng ngày càng sâu dần, càng chuyên nghiệp dần, càng đặc biệt dần đối với từng khía cạnh, đối với từng khu vực, từng loại hình hoạt động khác nhau của đời sống xã hội. Ví dụ người ta cần biết chúng ta quản lý các ngân hàng bằng cách nào? Tình hình hoạt động của các ngân hàng của chúng ta thực chất như thế nào? Lỗ hay lãi? Nợ xấu của hệ thống tài chính, ngân hàng Việt Nam là bao nhiêu? Tất cả những chi tiết như thế họ cần phải biết và họ đòi hỏi phải biết, nhất là khi chúng ta gia nhập WTO thì chúng ta buộc phải cho họ biết. Chúng ta không thể lấy cớ đây là bí mật quốc gia được nữa vì nếu không biết thì làm sao mà người ta hoạch định, người ta quản lý được rủi ro cho sự kinh doanh của người ta trên lãnh thổ của chúng ta được? Người ta bắt đầu phải biết về tài chính của mình, sau đó người ta biết về các đối tác Việt Nam, người ta biết về bức tranh tài chính thật của tất cả các công ty Việt Nam là như thế nào. Ví dụ người ta cần biết tình hình kinh doanh của VNPT thực ra lỗ hay lãi, vì bây giờ anh phát hành cổ phiếu và bán ra ngoài xã hội, anh cho phép người nước ngoài mua nghĩa là người ta mua hiệu quả kinh doanh của anh. Người ta cần biết hiệu quả kinh doanh mà VNPT công bố có thật không, nếu không thì người ta tự nhiên bị lừa và người ta không hoạch định được, không quản lý được những rủi ro đối với khoản đầu tư của mình vào VNPT. Tất cả bắt đầu bằng những lợi ích cụ thể như vậy trong đời sống kinh doanh và WTO là bắt đầu từ đời sống kinh doanh. Chính những đòi hỏi như vậy mới khiến người ta nhận ra rằng những yếu tố khác cũng tham gia vào quá trình làm người ta yên tâm, làm người ta quản lý được rủi ro. Vì thế, động cơ lợi ích của việc đòi hỏi tính minh bạch của một xã hội đối với các xã hội khác chính là để quản lý được, để dự báo được cái rủi ro mà một quốc gia mang lại cho các nhà đầu tư từ những quốc gia khác. Tôi lấy ví dụ, báo cáo thu nhập quốc dân của chúng ta có chính xác không? Thu nhập bình quân đầu người là 500, 700, 1000 đô la có phải là con số thật không? Vì người ta thường dựa vào con số như vậy để tính toán. Để đưa ra quyết định đầu tư xây dựng hệ thống phân phối ở nước CHXHCN Việt Nam thì người ta phải biết rõ sức mua của xã hội như thế nào và sự phân bố sức mua ấy như thế nào trong từng vùng lãnh thổ khác nhau trong phạm vi nước Việt Nam. Nếu không có những thông tin như vậy và những thông tin ấy không được đảm bảo bởi chính phủ thì làm thế nào để người ta hoạch định chính sách hay đưa ra quyết định? Minh bạch là đòi hỏi mang động cơ vụ lợi ban đầu nhưng nó kéo theo, nó phát triển theo những đòi hỏi để đảm bảo tính ổn định của các yếu tố tham gia vào quá trình quản lý rủi ro. Thậm chí, người ta còn muốn biết chính phủ của chúng ta có ngân sách quốc phòng là bao nhiêu hay chúng ta có chính sách ngoại giao gì, chính sách quốc phòng gì với các nước láng giềng. Tất cả những chuyện như vậy tuy không phải là đòi hỏi thành văn của các lực lượng xã hội nhưng sự tín nhiệm về sự hấp dẫn của quốc gia anh bắt buộc anh phải minh bạch về cả những chuyện như thế.

Các bạn đều biết rằng, nguyên thủ tướng Koizumi chỉ vì đến thăm đền Yasukuni mà tạo ra sự căng thẳng trong mối quan hệ với Trung Quốc. Điều đó cho thấy chúng ta đang sống trong một thế giới mà để người ta chơi với anh thì người ta phải lường được anh. Người ta không chỉ lường được chính sách của anh mà người ta còn phải lường được thái độ của anh bởi vì không chỉ chính sách của một chính phủ mới tạo ra cảm hứng phát triển mà thái độ của các nhân vật quan trọng như thủ tướng, chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội cũng góp một phần rất đáng kể vào việc tạo ra sức hấp dẫn của thị trường Việt Nam.

PV: Nếu công khai, minh bạch như vậy thì chúng ta sẽ được hưởng lợi ích gì từ sự minh bạch đó, thưa ông?

NTB: Lợi ích lớn nhất là người ta yêu mến mình, người ta tin mình. Chúng ta đang sống trong một thời đại mà sức cạnh tranh được quy định bởi một trong những yếu tố rất quan trọng là sự tin cậy vào đất nước và nhà nước. Đấy là đặc trưng của thời đại chúng ta. Sự tin cậy vào đất nước và nhà nước là một trong những yếu tố tham gia một cách quyết liệt, thậm chí một cách quyết định vào việc tăng cường sức cạnh tranh. Các bạn theo dõi hội nghị APEC, các bạn đều không thể không nhận thấy rằng, chỉ nguyên thái độ cởi mở, thái độ thân thiện của Tổng thống Mỹ thôi đã có sức động viên cực kỳ lớn đối với các nhà đầu tư từ phương Tây. Tôi là một người giao dịch với các nhà đầu tư, tôi hiểu rất rõ sự thân thiện ấy đã mang lại cho chúng ta nhiều lợi ích như thế nào vì những lợi ích ấy được mang lại thông qua sự xác nhận của Tổng thống Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ rằng chúng ta là một quốc gia hấp dẫn.

PV: Ông có thể đưa ra một ví dụ cụ thể cho thấy sự thân thiện, sự tin tưởng và tin cậy của Tổng thống Bush đối với Việt Nam đã mang lại hiệu ứng tức thì đối với giới đầu tư nước ngoài?

NTB: Khi Tổng thống Bush đang họp trong hội trường thì chúng tôi đi ăn trưa với một số cán bộ của Đại diện Phòng Thương mại và Công nghiệp Mỹ và người ta bàn luận một cách cực kỳ sôi nổi, người ta chất vấn một cách cực kỳ quyết liệt đối với quyết định của Hạ viện Hoa Kỳ trong việc hoãn phê chuẩn PNTR. Như vậy, chúng ta thấy ngay rằng, sự hoãn phê chuẩn của cơ quan lập pháp Hoa Kỳ đã tạo ra sự tranh cãi của các thương nhân Hoa Kỳ về việc tại sao quốc hội không thông qua PNTR cho Việt Nam. Nhưng thông qua thái độ thân thiện của Tổng thống Bush thì các thương nhân nhỏ sẽ tin tưởng hơn tức là họ thấy mặc dù chưa đến lúc bỏ PNTR nhưng khuynh hướng bỏ PNTR là tất yếu. Các nhà đầu tư bao giờ cũng đi trước bằng sự nghiên cứu và sự nghiên cứu đầu tiên của họ về một quốc gia chính là không khí chính trị trong các mối quan hệ quốc tế của quốc gia đó.

PV: Nếu nhìn vào tình hình minh bạch ở nước ta hiện nay thì theo ông nó đã đạt đến mức độ nào? Còn vấn đề nào chưa ổn?

NTB: Tôi nghĩ có hai yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến độ minh bạch của xã hội chúng ta. Thứ nhất và có lẽ quan trọng nhất là chúng ta chưa quan niệm một cách đúng và đầy đủ về khái niệm minh bạch, kể cả từ người làm chính sách. Chúng ta vẫn xem minh bạch như là một yếu tố khôn khéo trong đối thoại hay trong đấu tranh chính trị. Chúng ta áp dụng các kinh nghiệm và các hiểu biết về khái niệm minh bạch trong cuộc đấu tranh giành và gìn giữ độc lập dân tộc. Tất cả những kinh nghiệm ấy vẫn còn ám ảnh chúng ta khi hiểu khái niệm này. Đấy là khó khăn lớn nhất. Thứ hai là chúng ta chưa quen với một nền kinh tế tự do. Chúng ta vẫn cho rằng minh bạch ảnh hưởng đến hiệu suất kinh doanh nên mọi người đều đòi hỏi bảo vệ bí mật thương mại trước so với việc đòi hỏi minh bạch hoá quá trình thương mại. Kinh nghiệm kinh doanh của chúng ta nói cho cùng là kinh nghiệm chạy trước người khác chứ chưa phải là kinh nghiệm tiến cùng người khác. Chúng ta chưa có kinh nghiệm hợp tác và vì chúng ta không nhạy cảm với hợp tác nên chúng ta vô cùng nhạy cảm với cạnh tranh, cho nên, khi cạnh tranh mà không hợp tác thì bí mật quan trọng hơn là minh bạch. Nhưng nếu trong quá trình cạnh tranh, chúng ta cần sự hợp tác, chúng ta muốn lôi kéo đồng minh, muốn làm hấp dẫn mình trước đồng minh thì minh bạch quan trọng hơn bí mật. Đấy là hai yếu tố đang chi phối cả xã hội lẫn nhà nước về việc hiểu và tiến hành các chính sách minh bạch. Đó là tôi mới nói đến sự khó khăn trong lĩnh vực kinh tế và thương mại thôi, ngay cả trong lĩnh vực chính trị thì sự minh bạch cũng được hiểu không đúng. Sự minh bạch trong chính trị mới chỉ dừng lại ở việc giải quyết sự chưa hiểu lẫn nhau của nhân dân và nhà nước. Chúng ta đều thấy rằng trong những phiên chất vấn gần đây, nhân dân rất thích thú trước sự khúc triết, sự tài hoa, sự sáng suốt của Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng. Đại bộ phận nhân dân hong hóng, nghe ngóng, chờ đợi Chính phủ, mặc dù sự đúng đắn đó mới chỉ được thể hiện trong hành vi, trong phong cách còn việc biến thành sự đúng đắn của chính sách thì nhân dân còn phải tiếp tục chờ. Nhân dân chúng ta sốt ruột về sự sáng suốt của chính phủ và mỗi một sự sáng suốt đều được hoan nghênh, chờ đón và đều được trân trọng cả nhưng liệu chính phủ có hiểu điều đấy không? Khi nào chính phủ hiểu được nhân dân nghĩ gì về mình, chờ gì ở mình thì quá trình minh bạch sẽ đến. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có nói một câu rất hay là chúng ta cần xây dựng một chính phủ gần dân. Tôi rất thích câu ấy vì gần dân làm gì? Gần dân không phải để mị dân vì mị dân thì ở xa hay hơn ở gần, mà gần dân để hiểu dân. Hiểu dân để làm cho chính sách của mình trở nên cởi mở hơn, có chất lượng nhân dân hơn, đó là điều rất cần thiết.

PV: Có một ví dụ nào cho thấy chúng chỉ quen đi trước người ta chứ không phải tiến cùng người ta như ông vừa nói không? Trong cách hành xử của các doanh nghiệp, trong các chính sách chẳng hạn?

NTB: Nhiều lắm. Năm 2002 tôi có đi sang Hàn Quốc cùng với ông Bùi Xuân Khu, Tổng giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), bây giờ là thứ trưởng bộ công nghiệp. Rất nhiều quan chức cao cấp của Hàn Quốc như chủ tịch phòng thương mại, chủ tịch ngân hàng xuất nhập khẩu Hàn Quốc, thứ trưởng bộ Ngoại giao, thứ trưởng bộ công thương.... hỏi tôi rằng khi Việt Nam gia nhập WTO, khi tham gia BTA với Hoa Kỳ thì các ông cần gì? Tôi trả lời rằng chúng tôi cần các đồng minh trong việc bán hàng. Rất nhiều người trong chúng ta đi trước, nhưng đi trước một đoạn thì chúng ta vấp, chúng ta không có kinh nghiệm về thị trường Hoa Kỳ. Tôi rất muốn giúp nhiều công ty xây dựng đồng minh bán hàng vì chúng ta có thể không có lợi tuyệt đối trong một vụ thương mại nhưng chúng ta khắc phục được một khoản đầu tư rất lớn về thời gian cũng như về quảng cáo nếu chúng ta biết hợp tác. Ví dụ, tôi có đến Hoa Kỳ và cũng cử cán bộ đến Hoa Kỳ để tham dự một hội thảo bàn về Franchise. Tôi cho rằng việc đó vô cùng quan trọng trong giai đoạn đầu khi chúng ta mới tham gia quá trình thương mại toàn cầu vì suy cho cùng, có thể chúng ta sẽ phải chia sẻ bớt lợi ích xuất khẩu của chúng ta cho các hãng Franchise có tên tuổi vào Việt Nam nhưng chúng ta sẽ có mặt khắp thế giới vì chúng ta sẽ có mặt cùng với họ mà họ thì đã có mặt khắp thế giới. Khi chúng ta có mặt với họ khắp thế giới rồi thì đến lúc nào đó chúng ta sẽ có cách, có kinh nghiệm để góp mặt thêm những thứ khác chứ không phải chỉ có cái chúng ta phải mất phí để học. Tôi rất mong thái độ thương mại của chúng ta không phải là thái độ của con buôn đơn giản mà là thái độ của người biết phát triển các chính sách thương mại một cách phù hợp với đặc điểm của mình và với đặc điểm của các đồng minh kinh doanh của mình.

PV: Hiện nay, về mặt chính sách, có chính sách nào vẫn thể hiện quan điểm giữ bí mật thương mại không, thưa ông?

NTB: Phải nói rằng, chúng ta chưa có được chính sách thương mại rõ rệt, nói cho cùng là vậy. Chúng ta chưa chuyên nghiệp đến mức ngay cả các chính sách thương mại để giữ gìn bí mật chúng ta cũng chưa có. Chúng ta chưa có kinh nghiệm để có những chính sách rõ ràng nhưng ở những nước chưa chuyên nghiệp, ở những nền kinh tế chưa chuyên nghiệp thì thái độ tức là chính sách. Đấy là một trạng thái rất thú vị để nghiên cứu về các nền kinh tế chưa phát triển. Tức là người ta không đủ năng lực để xây dựng các chính sách mà người ta thường thể hiện ở mức thấp hơn chính sách là thái độ và không biết rằng sức hút của thái độ ấy tạo ra sự ngờ vực không kiểm soát được, không quản lý được và nó tạo ra sự rủi ro do sự thiếu tin cậy và sự thiếu rành mạch.

PV: Xin trân trọng cảm ơn ông!

LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Minh bạch, bình đẳng, năng lực Những yêu cầu không thể thiếu trong cải cách tư pháp

    13/11/2006Hoàng Ngọc GiaoCải cách tư pháp đang đặt ra những yêu cầu cải cách, đổi mới trong các hoạt động tư pháp. Bài viết này tiếp cận cải cách tư pháp với những tiêu chí: Minh bạch, Bình đẳng, Năng lực...
  • Tham nhũng: Cái giá của sự thiếu công khai và minh bạch

    29/07/2006Hữu VinhCuộc chiến chống tham nhũng đã khởi động được một thời gian không còn ngắn. Nhưng dường như, càng phát động "chống” nạn tham nhũng ngày càng tinh vi hơn và những vụ tham nhũng càng lớn hơn. Bộ trưởng Bộ Tư pháp Uông Chu Lưu đã phải nhìn nhận: "Tham nhũng diễn ra với tính chất và quy mô ngày càng lớn, phạm vi xảy ra với diện rộng và mang tính tổ chức giữa nhiều cá nhân và đơn vị"...
  • Minh bạch và công khai

    14/01/2006Đậu Anh Tuấn - Ban Pháp chế, VCCIMinh bạch là một khái niệm khá trừu tượng. Để đo lường tính minh bạch là một công việc hết sức khó khăn. Nhiều người vẫn thường hiểu minh bạch đồng nghĩa với công khai. Thực ra, khái niệm minh bạch là khái niệm rộng hơn, nó bao gồm cả cơ hội, tính bình đẳng trong tiếp cận thông tin, tính tin cậy, nhất quán của thông tin, tính dự đoán trước được và sự cởi mở của cơ quan cung cấp thông tin...