Sự khốn cùng của chủ nghĩa lịch sử

Người dịch: Nguyễn Quang A
03:59 CH @ Chủ Nhật - 22 Tháng Hai, 2009

>> Tải file:(Download .PDF file, 1.20 Mbytes)


Lời giới thiệu

Bạn đọc cầm trên tay cuốn thứ chín* của tủ sách SOS2, cuốn Sự khốn cùng của Chủ nghĩa lịch sử của Karl Popper, nhà triết học lớn nhất thế kỉ 20. Ông nổi tiếng về những nghiên cứu phương pháp luận khoa học. Cuốn Logic der Forschung [Logic Nghiên cứu] được xuất bản đầu tiên năm 1934 và được dịch sang tiếng Anh với tiêu đề Logic of Scientific Discovery đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến phương pháp khoa học của các khoa học tự nhiên. Cuốn sách này cũng có xuất xứ từ các năm 1930 và lần đầu tiên được xuất bản vào các năm 1944, 1945.

Cuốn sách này chỉ ra rằng lòng tin vào vận mệnh lịch sử chỉ là sự mê tín, và rằng không thể có sự tiên đoán nào về diễn tiến của lịch sử loài người bằng các phương pháp khoa học hay duy lí khác nào.

Học thuyết tin vào vận mệnh lịch sử và tin vào việc có thể tiên đoán diễn tiến của lịch sử, và trên cơ sở đó có thể cải biến xã hội một cách tổng thể cho phù hợp với các qui luật này, được ông gọi là chủ nghĩa lịch sử (historicism). Trước khi phê phán chủ nghĩa lịch sử, trong hai chương đầu ông mô tả các thuyết lịch sử chủ nghĩa, và chỉ sau đó trong hai chương cuối ông mới phê phán nó. Tức là, trong hai chương đầu ông đi mô tả nghiêm ngặt cái mà ông sẽ tấn công trong hai chương cuối. Cách làm này có điểm hay là phê phán của ông sẽ rất chặt chẽ, rõ ràng là nó phê phán cái gì; chứ không như nhiều phê phán mà chúng ta thường bắt gặp, không nêu tường minh cái muốn phê phán là gì, nên dễ dẫn đến nhầm lẫn. Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm là, sẽ có thể có người cho rằng cái ông phê phán thực ra không có thực, mà chỉ do ông tạo ra. Phán xét cuối cùng là của bạn đọc.

Lời đề tặng của ông có thể gây sốc cho một số bạn đọc Việt Nam, và có lẽ chính vì nó và vì nội dung của tiểu luận này mà ở Việt Nam (và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây) tác phẩm này của Popper được ít người biết đến. Tuy vậy, đọc kĩ chúng ta sẽ biết được rất nhiều vấn đề mà đến nay chúng ta chưa biết hay không được phép biết, và có thể giúp chúng ta có phương pháp thích hợp trong thực hiện cải cách xã hội, một việc phải được tiến hành liên tục, theo cách dần dần, từ từ, từng phần một. Chúng ta có thể nhìn lại quá khứ của mình, của các nước xã hội chủ nghĩa, có thể học được từ các sai lầm, thử làm và chắc chắn sẽ vấp phải sai lầm khác, phát hiện ra sai lầm mới, sửa chúng và lại thử tiếp. Đó là cách tiếp cận thử-và-sai, cách tiếp cận khoa học có hiệu quả không chỉ trong các khoa học tự nhiên và cả trong các khoa học xã hội.

Cuốn sách có thể bổ ích cho các học giả, các nhà hoạch định chính sách, và tất cả những ai quan tâm đến những vấn đề phương pháp luận của các khoa học xã hội.
Mọi chú thích của tác giả được đánh bằng số. Tất cả các chú thích đánh dấu sao (*) là của người dịch. Bản dịch chắc còn nhiều thiếu sót mong bạn đọc thông cảm, lượng thứ, và chỉ bảo; xin liên hệ theo địa chỉ Tạp chí Tin học và Đời sống, 54 Hoàng Ngọc Phách Hà Nội [25/B7 Nam Thành Công], hoặc qua điện thư [email protected] hay [email protected]

Hà Nội 5-2004
Nguyễn Quang A


Lời nói đầu

Tôi đã thử chứng minh, trong Sự Khốn cùng của Chủ nghĩa Lịch sử, rằng chủ nghĩa lịch sử là một phương pháp tồi - một phương pháp chẳng có kết quả gì. Nhưng tôi đã không thật sự bẻ được chủ nghĩa lịch sử.

Kể từ đó, tôi đã thành công bác bỏ chủ nghĩa lịch sử: Tôi đã chứng minh rằng, vì các lí lẽ logic nghiêm ngặt, là không thể đối với chúng ta để tiên đoán diễn tiến tương lai của lịch sử.
Lí lẽ chứa đựng trong một bài báo, ‘Thuyết Bất định trong Vật lí Cổ điển và Vật lí Lượng tử’, mà tôi công bố năm 1950. Nhưng tôi không còn thoả mãn với bài báo này. Một nghiên cứu thoả mãn hơn có thể thấy trong một chương về Thuyết Bất định, một phần của Tái bút: Sau Hai mươi Năm (Postscript: After Twenty Years) cho cuốn Logic của Khám phá Khoa học (Logic of Scientific Discovery) của tôi.

Để thông báo với bạn đọc về các kết quả mới hơn này, tôi dự định, bằng vài lời, đưa ra phác hoạ của sự bác bỏ chủ nghĩa lịch sử này. Lí lẽ có thể được tóm tắt trong năm khẳng định như sau:

1. Diễn tiến của lịch sử loài người bị ảnh hưởng mạnh bởi sự gia tăng hiểu biết của con người. (Tính đúng đắn của tiền đề này ngay cả những người thấy trong các ý tưởng, bao gồm các ý tưởng khoa học của chúng ta, chỉ như các sản phẩm phụ của sự phát triển vật chất loại này hay loại khác, cũng phải thừa nhận).

2. Chúng ta không thể tiên đoán, bằng các phương pháp duy lí hay khoa học, sự gia tăng tương lai về hiểu biết khoa học của chúng ta. (Khẳng định này có thể được chứng minh về mặt logic, bằng những cân nhắc được phác hoạ dưới đây).

3. Chúng ta không thể, vì thế, tiên đoán diễn tiến tương lai của lịch sử loài người.

4. Điều này có nghĩa rằng chúng ta phải bác bỏ khả năng của lịch sử lí thuyết; tức là, của một khoa học xã hội lịch sử có thể tương ứng với vật lí lí thuyết. Không thể có lí thuyết khoa học nào về phát triển lịch sử dùng làm cơ sở cho tiên đoán lịch sử.

5. Mục đích căn bản của các phương pháp lịch sử chủ nghĩa (xem các chương 11 đến 16 của cuốn sách này) vì thế là sai lầm; và chủ nghĩa lịch sử sụp đổ.

Lí lẽ, tất nhiên, không bác bỏ khả năng của mọi loại tiên đoán xã hội; ngược lại, nó hoàn toàn tương thích với khả năng kiểm tra các lí thuyết xã hội- thí dụ, các lí thuyết kinh tế- bằng cách tiên đoán những diễn biến nào đó sẽ diễn ra dưới các điều kiện nhất định. Nó chỉ bác bỏ khả năng tiên đoán những diễn tiến lịch sử ở chừng mực chúng có thể bị ảnh hưởng bởi sự gia tăng hiểu biết của chúng ta.

Bước quyết định trong lập luận này là khẳng định (2). Tôi nghĩ rằng tự nó có tính thuyết phục: nếu có cái như hiểu biết gia tăng của con người, thì hôm nay chúng ta không thể biết trước cái chúng ta sẽ biết ngay chỉ ngày mai. Đây, tôi nghĩ, là lập luận vững chắc, nhưng nó chưa được tính là một chứng minh logic của khẳng định. Chứng minh của (2), mà tôi trình bày trong những công bố đã được nhắc đến, là phức tạp; và tôi không ngạc nhiên nếu có thể thấy những chứng minh đơn giản hơn. Chứng minh của tôi bao gồm việc chứng tỏ rằng không có (bộ) tiên đoán nào -bất luận là một nhà khoa học hay một máy tính, có thể tiên đoán các kết quả tương lai của chính nó bằng các phương pháp khoa học. Các nỗ lực làm như vậy đạt kết quả chỉ sau sự kiện, khi đã quá muộn cho một tiên đoán; chúng có thể đạt kết quả chỉ sau khi tiên đoán đã biến thành diễn giải lại.

Lí lẽ này, thuần tuý mang tính logic, áp dụng cho các bộ tiên đoán khoa học có bất kể độ phức tạp nào, bao gồm cả ‘xã hội’ của các bộ tiên đoán tương tác với nhau. Nhưng điều này có nghĩa là không xã hội nào có thể tiên đoán các trạng thái hiểu biết tương lai của chính nó một cách khoa học.

Lí lẽ của tôi khá hình thức, và vì thế nó có thể bị nghi ngờ là không có mấy ý nghĩa thực tế, dù cho tính hợp lệ logic của nó được cho là dĩ nhiên.

Tuy vậy, tôi đã thử chứng tỏ tầm quan trọng của vấn đề trong hai công trình. Trong công trình sau của hai nghiên cứu này, trong The Open Society and its Enemies (Xã hội Mở và các Kẻ thù của nó), tôi đã lựa chọn một số sự kiện từ lịch sử của tư tưởng lịch sử chủ nghĩa, nhằm minh hoạ ảnh hưởng dai dẳng và nguy hại của nó lên triết lí xã hội và chính trị, từ Heraclitus và Plato đến Hegel và Marx. Trong công trình trước của hai nghiên cứu này, trong Sự Khốn cùng của Chủ nghĩa lịch sử (The Poverty of Historicism), bây giờ được xuất bản lần đầu tiên bằng tiếng Anh dưới dạng sách, tôi đã cố chỉ ra tầm quan trọng của chủ nghĩa lịch sử như một cấu trúc trí tuệ quyến rũ. Tôi đã cố gắng phân tích logic của nó - thường rất tinh tế, cực kì lí thú và rất dễ đánh lừa – và lập luận rằng nó có yếu điểm cố hữu và không thể sửa được.

K.R. P.
Penn, Buckinghamsgire,
Tháng 7, 1957

Một vài trong các nhà phê bình am hiểu nhất của cuốn sách này đã bị tiêu đề của nó làm cho bối rối. Nó có ý định ám chỉ đến tiêu đề của cuốn Sự Khốn cùng của Triết học (The Poverty of Philosophy) của Marx, tiêu đề đó đến lượt nó, lại ám chỉ đến Philosophy of Poverty (Triết học của sự Khốn cùng) của Proudhon.

K.R.P.
Penn, Buckinghamshire,
Tháng 7, 1959


Dẫn nhập

Mối quan tâm khoa học về các vấn đề xã hội và chính trị hầu như không kém xưa so với mối quan tâm khoa học về vũ trụ học và vật lí học; và đã có các giai đoạn trong thời cổ (Tôi nghĩ đến lí thuyết chính trị của Plato, và sưu tập hiến pháp của Aristotle) khi khoa học xã hội có thể dường như đã tiến bộ hơn khoa học tự nhiên. Nhưng với Galileo và Newton, thành công của vật lí học đã vượt sự mong đợi, vượt xa tất cả các khoa học khác; và từ thời Pasteur, Galileo của sinh học, các khoa học sinh học đã hầu như thành công ngang vậy. Nhưng các khoa học xã hội vẫn dường như chưa tìm thấy Galileo của mình.

Trong những hoàn cảnh như vậy, các nhà nghiên cứu làm việc trong ngành này hay ngành khác của các khoa học xã hội đặc biệt quan tâm đến các vấn đề phương pháp; và phần lớn thảo luận của họ về những vấn đề này được tiến hành với cái nhìn đến các phương pháp của các khoa học thành công hơn, đặc biệt là vật lí học. Thí dụ, đã có nỗ lực có ý thức để sao chép phương pháp thực nghiệm của vật lí, điều đã dẫn, trong thế hệ của Wundt, đến cải cách tâm lí học; và từ J. S. Mill, đã có các nỗ lực lặp đi lặp lại để cải cách phương pháp của các khoa học xã hội theo hướng gần tương tự. Trong lĩnh vực tâm lí học, những cải cách này có thể đã có mức độ thành công nào đó, bất chấp rất nhiều thất vọng. Nhưng trong các khoa học xã hội lí thuyết, ngoài kinh tế học, chẳng được gì ngoài sự thất vọng từ các thử nghiệm này. Khi thảo luận các thất bại này, mau chóng nảy sinh câu hỏi liệu các phương pháp của vật lí học thực sự có áp dụng được cho các khoa học xã hội hay không. Hay có lẽ niềm tin khăng khăng vào khả năng có thể áp dụng chính là cái phải chịu trách nhiệm về trạng thái đáng phàn nàn của các ngành khoa học này?

Cách đặt vấn đề này gợi ý một sự phân loại đơn giản các trường phái tư duy quan tâm đến phương pháp của các khoa học ít thành công hơn. Theo quan điểm của chúng về khả năng có thể áp dụng các phương pháp của vật lí học, chúng ta có thể phân loại các trường phái này như theo tự nhiên hoặc như phản tự nhiên; gắn cho chúng nhãn ‘theo tự nhiên’ hay ‘tích cực’ nếu chúng ủng hộ việc áp dụng các phương pháp của vật lí học cho các khoa học xã hội, và ‘phản tự nhiên’ hay ‘tiêu cực’ nếu chúng phản đối sử dụng các phương pháp này.

Liệu một nhà nghiên cứu phương pháp tán thành học thuyết phản tự nhiên hay theo tự nhiên, hoặc chấp nhận một lí thuyết kết hợp cả hai học thuyết hay không, sẽ chủ yếu phụ thuộc vào quan điểm của ông ta về đặc trưng của khoa học được xem xét, và đặc tính của đối tượng của nó. Nhưng thái độ mà ông ta chấp nhận sẽ cũng phụ thuộc vào quan điểm của ông ta về các phương pháp của vật lí học. Tôi tin điểm sau cùng này là quan trọng nhất. Và tôi nghĩ rằng những sai lầm cốt yếu trong hầu hết thảo luận về phương pháp luận nảy sinh từ một số hiểu lầm rất phổ biến về các phương pháp của vật lí học. Đặc biệt, tôi nghĩ chúng nảy sinh từ một diễn giải sai về hình thức logic của các lí thuyết của nó, về các phương pháp kiểm tra chúng, và về chức năng logic của quan sát và thí nghiệm. Tôi cho rằng những hiểu lầm này có các hậu quả nghiêm trọng; và tôi sẽ thử biện minh luận điểm này ở các chương 3 và 4 của nghiên cứu này. Ở đó tôi sẽ cố gắng chứng tỏ rằng các lí lẽ và học thuyết khác nhau và đôi khi mâu thuẫn nhau, phản tự nhiên cũng như theo tự nhiên, thực ra dựa vào một sự hiểu sai lầm về các phương pháp của vật lí học. Trong các chương 1 và 2, tuy vậy, tôi sẽ giới hạn mình ở việc giải thích các học thuyết phản tự nhiên và theo tự nhiên nào đó tạo thành một cách tiếp cận đặc trưng trong đó cả hai loại học thuyết được kết hợp.

Cách tiếp cận, mà đầu tiên tôi muốn giải thích, và chỉ phê phán muộn hơn, được tôi gọi là ‘chủ nghĩa lịch sử’. Thường gặp nó trong các thảo luận về phương pháp của các khoa học xã hội; và nó thường được dùng mà không có nhận xét phê phán, hoặc thậm chí được coi là dĩ nhiên. Tôi hiểu ‘chủ nghĩa lịch sử’ nghĩa là gì sẽ được giải thích đầy đủ trong nghiên cứu này. Sẽ là đủ nếu tôi nói ở đây rằng tôi hiểu ‘chủ nghĩa lịch sử’ là một cách tiếp cận đối với các khoa học xã hội cho rằng tiên đoán lịch sử là mục đích chính của chúng, và cho rằng mục đích này có thể đạt được bằng khám phá ra các ‘nhịp điệu’ hay ‘hình mẫu’, các ‘qui luật’ hay ‘xu hướng’ làm cơ sở cho tiến hoá của lịch sử. Vì tôi tin chắc rằng cuối cùng các học thuyết lịch sử chủ nghĩa như vậy về phương pháp chịu trách nhiệm về tình trạng thiểu não của các khoa học xã hội lí thuyết (ngoài lí thuyết kinh tế), trình bày của tôi về các học thuyết này chắc chắn không phải không có thành kiến. Nhưng tôi đã cố gắng hết sức để biện hộ cho chủ nghĩa lịch sử nhằm tính điểm cho phê phán tiếp sau của tôi. Tôi đã cố gắng để trình bày chủ nghĩa lịch sử như một triết lí thống nhất được cân nhắc kĩ lưỡng. Và tôi đã không do dự để tạo ra các lí lẽ ủng hộ nó mà, theo hiểu biết của tôi, bản thân các nhà lịch sử chủ nghĩa đã chưa bao giờ đưa ra. Tôi hi vọng, bằng cách này, tôi đã thành công xây đắp một vị trí thật sự đáng tấn công. Nói cách khác, tôi đã cố gắng để hoàn thiện một lí thuyết thường được đưa ra, nhưng có lẽ chẳng bao giờ trong một dạng được phát triển đầy đủ. Đó là lí do vì sao tôi đã chọn một cách có cân nhắc kĩ lưỡng thuật ngữ hơi lạ là ‘chủ nghĩa lịch sử’. Bằng cách giới thiệu nó tôi hi vọng tránh được trò chơi chữ đơn thuần: vì, tôi hi vọng, chẳng ai sẽ bị cám dỗ để nghi ngờ liệu bất kể lí lẽ nào được thảo luận ở đây có thuộc về chủ nghĩa lịch sử một cách thực sự hay đúng hay bản chất hay không, hoặc thuật ngữ ‘chủ nghĩa lịch sử’ thật sự hay chính xác hay thực chất có nghĩa là gì.

LinkedInPinterestCập nhật lúc: