Say cùng Vũ Hoàng Chương

11:25 SA @ Thứ Năm - 28 Tháng Bảy, 2011
Vũ Hoàng Chương đến với cuộc đời này như một trích tiên bị đày ải. Trong phong trào Thơ mới, tài năng của Vũ Hoàng Chương không hề thua kém những cái tên được tung hê đến đỉnh điểm như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên…nhưng ông lại bị nhìn nhận một cách kì thị, thiếu sòng phẳng. Tiếc một nỗi người ta đánh giá một thi sĩ, một hồn thơ lại không đứng trên tinh thần học thuật và nhân văn tiến bộ mà dựa vào quan điểm xã hội giáo điều, xơ cứng, phi văn học. Điều đó có khác gì những anh hàng cá hàng rau vừa đếm tiền vừa bình luận Đường thi. Người ta chê bai cái say hào sảng trong thơ ông để tung hê loại thơ ca ngợi phân bón với thuốc trừ sâu (thâm ý giễu nhại trong truyện ngắn Chú Hoạt tôi của Nguyễn Huy Thiệp). Người ta vả vào mặt một thi sĩ đang phiêu diêu trên bầu trời nhân văn tuyệt cùng tự do để lôi cổ ông vào tù quét rác. Không cần biện thuyết, chả phải thanh minh, Vũ Hoàng Chương lặng lẽ ra đi trong uất ức bỏ lại sau lưng một di sản tinh thần đáng ngưỡng mộ. Những bến bờ siêu thực không giới hạn chính là hình ảnh phóng chiếu của một tâm hồn truy cầu tự do tuyệt cùng, tuyệt đích làm say đắm lòng người. Tự nó sẽ xây dựng cho ông một thánh đường thi ca diễm lệ mà hàng triệu con người thế hệ sau tự nguyện làm tín đồ. Những kẻ thóa mạ ông nếu còn lòng tự trọng sẽ sám hối âm thầm trong nhiều trang di cảo…

Đọc thơ Vũ Hoàng Chương người ta cảm giác mình bị mất thăng bằng. Thơ ông nói nhiều đến cái say: say rượu, say tình, say nhạc, say thơ. Và người ta khép tội ông: kẻ trụy lạc, hoang tưởng, bế tắc, thoát ly, hèn nhát, vô trách nhiệm.

Tại sao người ta lại phê phán, hắt hủi Vũ Hoàng Chương?

Bởi vì ông dính vào vụ án chính trị Nhân văn – Giai phẩm? Đó chỉ là một phương diện. Cái đáng sợ nhất làm rào cản văn chương đến với người đọc chính là sự thiển cận, mờ mịt trong cách thức tiếp cận, quan niệm về nó. Định kiến chính trị là chuyện thường hằng, và muôn đời khó ai tránh khỏi. Ngay cả những nhà văn đoạt giải Nobel cũng luôn bị định kiến chính trị phê phán, băm vằm tơi tả. Điều này đã trở thành quy luật trong tiến trình đấu tranh, phát triển của lịch sử loài người. Cái đáng ghét nhất, nguy hiểm nhất khiến văn chương bị bóp méo, bị hiểu sai và tầm thường hóa là cái tư duy ấu trĩ giữ vai trò thống trị trong đời sống văn học. Nó phi chính trị, phi văn học, nhưng nó đe dọa ghê gớm đến văn chương, nghệ thuật. Và đó là tư duy hiện thực. Một kiểu hiện thực cục mịch, vô học.

Người ta cho rằng những vần thơ say của Vũ Hoàng Chương là sự cổ súy, kích thích cho lối sống thoát ly, sa vào trụy lạc mà quên mất trách nhiệm với cuộc đời. Phải đánh sập cái thành trì tư tưởng này thì may ra những bộ óc giáo điều mới nhận thức lại về Vũ Hoàng Chương.

Hoài Thanh xứng đáng được gọi là người có cặp mắt xanh tinh đời thấu suốt, cảm hiểu được nhiều thi sĩ Thơ Mới, trong đó có Vũ. Trong thi nhân Việt Nam ông đã có lời nhận xét khách quan: “Ý giả Vũ Hoàng Chương định nối cái nghiệp những thi hào xưa của Đông Á: Cái nghiệp say. Người say đủ thứ: say rượu, say đàn, say ca, say tình đong đưa…Kể, cái say sưa của Vũ Hoàng Chương là một thứ say sưa có chừng mực, say sưa mà chưa hẳn là trụy lạc…”.

Tôi vẫn cảm thấy nực cười với cách nghĩ ngây thơ của nhiều người khi hình dung về quá trình sáng tạo nghệ thuật nói chung của các nghệ sĩ. Trong tâm thức của họ, các nghệ sĩ nói chung, các nhà thơ, khi sáng tác họ phải trong một tư thế nghiêm của một anh bộ đội trong giờ chào cờ. Rồi từ đó, bằng đầu óc lý trí tỉnh táo, các nghệ sĩ, các nhà thơ gồng mình nặn ra trong óc từng chữ xinh xắn để viết ra những mĩ từ trong sáng thanh lịch. Rằng khi viết ra trong đầu họ luôn ấp ủ một hoài bão vĩ đại, cao cả, kinh thiên động địa, và trong sáng tuyệt đối kiểu như văn sĩ Hộ trong truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao từng tự mình đay nghiến. Rằng văn chương là cái gì thánh thiện ghê gớm lắm. Nhưng chung quy lại là anh ta chẳng làm được gì. Hộ không sáng tác được gì ra trò không phải vì gánh nặng cơm áo, gạo tiền cũng như nhiều người vu cáo cho thời đại đã bóp nghẹt anh ta. Anh ta mơ đến giải Nobel mà anh ta không hề biết giải Nobel là gì và được trao như thế nào. Làm gì có giải Nobel văn chương nào trong cả thế kỉ nay trao ngay cho một tác phẩm xuất bản trong năm. Nobel văn chương là trao cho toàn văn nghiệp, và tác phẩm đó phải đi vào đời sống văn học vài chục năm trước khi nó được trao giải. Vào những năm đầu, khi giải Nobel chưa được mở rộng ra khắp thế giới, đúng là có những tác phẩm được trao gần với thời điểm nó ra đời. Ví dụ như quyển tiểu thuyết Cuộc du lịch kì diệu của Nils Holgersson của nhà văn Thụy Điển Selma Lagerlöf xuất bản năm 1906 và được trao giải Nobel năm 1909. Nhưng càng về sau, tiêu chí trao giải Nobel rất khắc nghiệt, người được trao là xét trên toàn bộ quá trình cống cho của đời sống văn học. Hầu hết các nhà văn đạt giải Nobel đều có tuổi đời trên 50 và ngoài mảng sáng tác đồ sộ họ còn có mảng phê bình, tiểu luận xuất sắc. Anh Hộ nhà ta cứ ngây thơ nghĩ rằng sẽ viết ra một tác phẩm đạt giải Nobel liền, làm lu mơ hết mọi bờ cõi và giới hạn mà lại chưa hề đọc tác phẩm Nobel nào và tuổi đời còn khá trẻ chưa nếm qua hết những vinh nhục, cay đắng của kiếp người. Anh ta đâu biết rằng những tác phẩm bất hủ mà Đoxtoiepxki để lại ngày nay có lúc được thai nghén trong tình cảnh túng thiếu trốn nợ, và ông là một tay nghiện bài hạng nhất. Không thể nào lấy tiểu sử nghiện ngập của Vũ Hoàng Chương đánh đồng, quy chiếu kì thị thơ của ông.

Quay lại vấn đề, cái cốt tủy làm nên sự thất bại và bi kịch của Hộ là anh ta quá lí trí, đầu óc quá nặng nề những tuyên ngôn áp đặt thì làm sao tư duy vươn đến nổi chân trời cao rộng đúng nghĩa của văn chương, nghệ thuật.

Và đó là lý do mà đầu thế kỉ 20, cái nguyên lý tuyệt đối hóa lý trí của Descartes đã từng chế ngự chủ nghĩa cổ điển (và lởn vởn trong chủ nghĩa hiện thực) đã không còn có đất dung thân. Các nhà thi sĩ đi tìm một lối thoát mới cho thơ ca: Trực cảm, vô thức. Chủ nghĩa siêu thực ra đời ở phương Tây là một bước tiến lớn của tư duy nhân loại trong việc tìm ra một hướng đi mới cho quá trình sáng tác của người nghệ sĩ cũng như tư duy sáng tạo. Nó ảnh hưởng mạnh mẽ khắp thế giới hơn cả chủ nghĩa lãng mạn trước đó, đến nổi nó trở thành một trào lưu hùng mạnh trong hội họa. Danh họa Picasso cũng đã chạm đến.

Phủ nhận sự kiểm soát nặng nề, sáo rỗng, xơ cứng của lý trí, logic và ràng buộc của những khuôn khổ, chuẩn mực đạo đức, mĩ học lỗi thời…, chủ nghĩa siêu thực lặn sâu vào vô thức con người, lấy trực cảm làm lăng kính biến ảo mọi hình hài. Nó hướng đến phối hợp những yếu tố có vẻ không có gì can hệ nhau. Nó thiết lập một trạng thái “sáng tác tự động” như một bản năng của người nghệ sĩ khi bị thôi miên. Diện mạo của vô thức tưởng chừng như nhảm nhí, nhưng nó đã được hùng biện thuyết phục bằng tinh thần Phân tâm học của Freud. Chủ nghĩa siêu thực chạm đến cái siêu hiện thực, một hiện thực tuyệt đối, chân thực nhất mà con người ta thường ngày đã dùnǵ lý trí giấu kín bởi e ngại trước những chuẩn mực đạo đức, mĩ học, và logic. Thứ hiện thực được phát ngôn bằng lý trí tận cùng của nó vẫn còn mang tính xã hội rất xã giao, có phần giả tạo.

Ở Việt Nam, tuy không sinh ra cái gọi là chủ nghĩa siêu thực nhưng chất siêu thực thì đã thẩm thấu trong sáng tác của nhiều thi sĩ trong đó phải kể đến Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ…và Vũ Hoàng Chương.

Cái say của Vũ Hoàng Chương là cái say trong bến bờ siêu thực, nơi mọi ràng buộc của lý trí và hiện thực trơ lì, đen tối không bén mảng đến. Cái say ấy là một cái say làm sống dậy bản năng sáng tạo và thiên tính nghệ thuật thi ca vĩnh hằng. Say để thăng hoa hồn thơ.

Say đi em! Say đi em!
Say cho lả lơi ánh đèn

Cái say ấy có tiếng nhạc mê ly:

Khúc nhạc hồng êm ái
Điệu kèn biếc quay cuồng
(Say đi em)

Nhịp trúc buông khoan
Sóng tơ dồn dập…
(Dâng tình)

Hay là sự nhập hồn của điệu nhạc cộng hưởng vào nỗi đau xa cách người yêu:

Kiều Thu hề Tố em ơi
Ta đang lửa đốt tơi bời Mái Tây
Hàm ca nhịp gõ khói bay
Hồ Xừ Xang Xế bàn tay điên cuồng

Kiều Thu hề trọn kiếp thương
Sầu cao ngùn ngụt mấy đường tơ khô
Xừ Xang Xế Xự Xang Hồ
Bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên

Kiều Thu hề Tố hỡi em!
Nghiêng chân rốn bể mà xem lửa bùng
Xế Hồ Xang khói mờ rung
Nhịp vương sầu tỏa năm cung ngút ngàn
(Mười hai tháng sáu)

Là cái say ái tình, xác thịt đê mê:

Hãy buông lại gần đây làn tóc rối
Sát gần đây, gần nữa, cặp môi điên
Rồi em sẽ dìu anh trên cánh gió
Đưa hồn say về tận cuối trời quên
(Quên)

Lưng mềm não nuột dáng tơ
Hàng chân lả lướt
Đê mê hồn ngửi cánh tay hờ
(Say đi em)

Là cái say trong điệu khiêu vũ:

Lui đôi vai, tiến đôi chân
Riết đôi tay, ngả đôi đầu
(Say đi em)

Và dĩ nhiên là không thể thiếu rượu:

Em ơi lửa tắt bình khô rượu
Đời vắng em rồi say với ai
(Đời vắng em rồi)

Hãy thèm say còn đó rượu chờ ta
Hãy thèm say hồn khát vẫn thèm men
Rượu, rượu nữa và quên quên hết
(Say đi em)

Tất cả những trạng thái say sưa điên đảo đó là sự nổi loạn của một tâm hồn uất ức, chán ngán với thời cuộc. Tại sao người ta không chịu hiểu đó là một hành vi ứng xử rất văn hóa trong tâm thế con người này? Nhìn vào những dòng thơ mê đắm dục lạc kia, trực giác mách bảo cho con người muôn thế hệ phải ngầm hiểu rằng cái đó chỉ là cái cớ. Hiện thực cuộc sống thế nào mà con người ta phải tìm quên trong say sưa cuồng nhiệt, phải tìm đến trạng thái mất thăng bằng, phải xô cho xiên lệch lung lay trời đất: Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân? Xô cho sụp đổ hết thảy để từ trên đống hoang tàn thời cuộc ấy một chân trời diễm tuyệt sẽ mọc lên trong ước vọng cháy bỏng, ngọt ngào. Ngay trong cái say ấy vừa chứa đựng hiện thực chân thực nhất vừa chứa đựng khát vọng dữ dội, cuồng nộ. Điều đó há chẳng phải rất rất hiện thực hơn hàng chục quyển tiểu thuyết của những nhà văn nhân đạo giả vờ chuyên sao chép y chang hiện thực hay sao? Nhưng Vũ Hoàng Chương nào có thoát li khỏi hiện thực, dù đã đẩy trạng thái tâm hồn lên đến đỉnh điểm của sự cuồng loạn, say sưa bao niềm dục lạc, mà nỗi đau nhân thế vẫn choáng đầy tâm hồn: nỗi đau tình yêu tan vỡ, nỗi đau thời cuộc đảo điên.

Say không còn biết chi đời
Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt thành sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành sầu không sụp đổ em ơi!

Đó mới là ẩn ngữ cuối cùng đằng sau cuộc truy hoang không bờ bến. Say để đánh lung lay trong lòng khối thành trì khổ não kiếp nhân sinh. Say để chao nghiêng trời đất, sụp đổ địa cầu để tái cấu trúc thiết lập một thiên đường mộng tưởng. Tận cùng cuộc vui điên đảo ấy là tâm tư bế tắc, sự ức chế không lối thoát.

Nhưng trên tất cả, Say là sự chuẩn bị tuyệt hảo cho hồn thơ được thăng hoa. Chỉ khi tâm hồn con người thoát khỏi những ràng buộc tạp nham của hiện thực trọc lốc, khi ta thức tỉnh toàn tri trực giác siêu hình, và tiếng nhạc, và men cay, và ái tình dục lạc ùa về…đó mới là lúc tâm hồn sống trọn vẹn trong thế giới thăng hoa thuộc về nghệ thuật. Vũ Hoàng Chương đã nhìn ra điều đó, ông cố đẩy người đọc lạc vào một cảnh giới của tình yêu tuyệt đích, vô tư có tính bản năng, không toan tính thiệt hơn, không ngại ngần lo sợ để thức dậy toàn năng mọi giác quan. Chỉ trong thế giới ấy, thì con người mới vô hiệu hóa được sự vô nghĩa lý của cuộc sống đời thực đang đè nặng lên số kiếp mình. Thế giới ấy sẽ tồn tại vĩnh hằng trong vô thức, đẹp như một nàng trinh nữ vô nhiễm nguyên tội. Chỉ trong trạng thái say sưa điên đảo đó, mọi oán giận, thù hằn, mọi e dè khiếp hãi sẽ cháy tiêu tan cùng lý trí, tâm hồn con người lại trở về với trạng thái siêu thăng, trong giá trắng ngần mà sống trọn một mùa vui. Thế giới say ấy đẹp đến nao lòng! Say là một thể nghiệm có tính tâm linh chứ không còn là sự ức chế thần kinh thô thiển! Chỉ khi say con người ta mới sống hết mình, mới chung tình tuyệt đối: Ta đợi em từ ba mươi năm. Và mãi sẽ đợi chờ như thế. Những dòng thơ sau đã đạt đến cảnh giới siêu nghiệm của một triết gia truy cầu tuyệt cùng cái đẹp, dâng trọn tấm lòng trinh nguyên thuần khiết cho thơ:

Ta van cát bụi bên đường
Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này
Để ta tròn một kiếp say
Cao xanh liều một cách tay níu trời…
(Nguyện cầu)

Nếu như các thi sĩ trong nhóm Xuân Thu nhã tập thiết lập chất siêu thực chủ yếu bằng nhạc tính và sự phối hợp ngôn từ theo kiểu lạ hóa thì Vũ Hoàng Chương lại chọn thế giới nghệ thuật của cái Say là phương tiện, không gian, cảm hứng biểu đạt. Bài thơ Say đi em đã tạo ra một không gian siêu thực nơi mà mọi giác quan lý tính và logic bài trí đều bị đánh lung lay. Nơi mà con người chìm trong trạng thái vô thức, hành động theo bản năng, mất tự chủ, mọi sự tồn tại khách quan đều quên hết những nguyên tắc vật lý:

Hồn ngả lâu rồi nhưng chân còn dẻo
Lòng trót nghiêng mà bước vẫn du dương
Lòng nghiêng tràn hết yêu đương
Bước chân còn nhịp nghê thường lẳng lơ

Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi.

Say sẽ mãi là một trạng thái có tính biểu tượng làm nên chất siêu thực trong thơ Vũ Hoàng Chương. André Breton từng cho rằng chính việc phá vỡ ranh giới giữa bệnh và không bệnh, đạt đến trạng thái như người điên là lúc bản năng nghệ thuật trỗi dậy mãnh liệt nhất. Dĩ nhiên điên là một cách nói. Há chẳng phải chính trong những lúc đau đớn tột cùng của bệnh tật, tâm thần bất định, lý trí chìm mờ Hàn Mặc Tử đã sáng tạo nên những bài thơ bất tử, người người truyền tụng đó sao? Thi sĩ Bùi Giáng cũng từng được gọi là thi sĩ điên, dường như ông xuất khẩu thành thơ, lời tự trong gan ruột trào ra những lúc tâm thần chao đảo. Những điều ấy lý trí con người làm sao cắt nghĩa nổi. Vũ Hoàng Chương đã thể nghiệm điều đó trong thơ của mình bằng khái niệm say, cấp cho nó một nội hàm văn hóa đạt đến bến bờ siêu thực mãi mê đắm lòng người! Xin kết thúc bằng cái âm hưởng hoành tráng của một bậc chiến sĩ kiêu hùng, say trên yên ngựa, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng thời Đường:

Bồ đào mĩ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tì bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chính chiến kỉ nhân hồi
(Lương châu từ – Vương Hàn)
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Cuộc đời gửi lại trong thơ

    29/08/2019Lưu Khánh ThơXuân Quỳnh (1942-1988) là một gương mặt độc đáo trong nền thơ Việt Nam hiện đại. Từ giã trần gian đã hơn 20 năm nhưng thơ chị vẫn luôn có mặt trong hành trang tinh thần của nhiều thế hệ bạn đọc...
  • Vài suy nghĩ về cái Tôi trong thơ từ cách nhìn Phật Giáo

    16/11/2017Nguyễn Điệp HoaTưởng rằng có cái TÔI tuyệt đối, cái tôi đích thực, đó là một trong những ảo tưởng lớn nhất của loài người. Nhưng xem ra, căn bệnh này ở những người làm nghệ thuật và các nhà thơ còn nặng hơn nhiều so với những người khác...
  • Đọc lại văn thơ Đông Kinh nghĩa thục

    02/03/2017Nguyên AnTrong kho tàng văn chương - văn hoá Việt Nam mấy trăm năm nay, có lẽ không có một nhóm tác giả, một tao đàn, một phong trào nào tồn tại ngắn ngủi mà lại có tiếng vang tốt đẹp, lâu dài như phong trào Đông Kinh nghĩa thục.
  • Tính nhạc của thơ và thơ phổ nhạc

    29/06/2011TS. Lê Thị Bích HồngTiếng nói trong thơ là tiếng nói đầy âm nhạc, tiếng nói có nhịp điệu- nhịp điệu của những âm thanh vật chất, của tiếng nói thực tế hoà với nhịp điệu cảm xúc bên trong tâm hồn nhà thơ. Thơ là nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn quảng đại và đa cảm. Tính nhạc được tạo nên bởi những âm hưởng gắn liền với hình ảnh, cảm xúc do sử dụng phối hợp âm thanh, nhịp điệu, từ ngữ… phù hợp với nội dung tư tưởng, tình cảm được biểu đạt.
  • Bài thơ cuối cùng của nhà cách mạng Nguyễn An Ninh

    19/06/2011Lê Minh QuốcNguyễn An Ninh (1900 - 1943) là nhà văn, nhà báo, nhà cách mạng ở đầu thế kỷ 20 trong lịch sử Việt Nam. Ông mất trong tù vào ngày 14 tháng 8 năm 1943, hai năm trước khi Việt Nam giành lại được độc lập, hưởng dương 43 tuổi. Lúc mất, người ta đã tìm thấy trong túi áo ông những dòng chữ viết nghệch ngoạc bài thơ Sống - Chết...
  • Trả lại tên cho một nhà thơ tiền chiến đất Thăng Long

    02/09/2010Hoàng Thư NgânTôi cầm trên tay tập thơ “Hương sắc Yên hòa” do phường Yên hòa-quận Cầu giấy xuất bản nhân kỷ niệm 10 năm thành lập CLB thơ (1995-2005). Không có gì đáng nói nhiều về tập thơ này, vì nó cũng như bao tập thơ khác sinh ra từ rất nhiều câu lạc bộ thơ tương tự ở các phố phường Thủ đô gần đây, nếu không có phần 2 của tập thơ nhan đề: “Hương xưa”(trang 187). Thoáng một chút thú vị , vì trong phần này có nhắc đến một người mà tên đã trở thành tên một đường phố của Hà nội : “Hoa-Bằng”...
  • Thơ là gì

    25/11/2009Phạm Quỳnh"Không biết rằng ngược xuôi bôn tẩu như vậy có ăn thua gì, chính là phải định tĩnh tinh thần, kết ngưng trí tuệ mới được. Ở người nào, ở vật nào là không có thơ? Nhưng cái hồn thơ ấy nó thâm trầm u ẩn, không phải bộc lộ ra ngoài, phải có chí, phải chịu khó mới tìm ra được.
  • Thơ ta thơ tây

    03/07/2009Phạm QuỳnhNhư muốn vẽ bức tranh thì con mắt phải nhìn trong cảnh vật mà thu lấy cái hình ảnh, rồi mới tìm cách truyền thần ra giấy ra lụa. Muốn làm bài thơ cũng vậy, trong trí phải tưởng tượng ra một cái cảnh, hoặc là cảnh thiên nhiên, hoặc là cảnh trong tâm giới, rồi dùng những âm hưởng thích đáng mà gọi, mà kêu nó lên, khiến cho người nghe cũng phảng phất tưởng tượng như thế. Hai đàng cùng là vẽ cả, một đàng là vẽ cách trực tiếp, một đàng là vẽ cách gián tiếp, nhưng đều muốn khêu gợi ra mối tư tưởng cảm tình trong tâm trí người ta vậy.
  • Thơ Baudelaire

    03/06/2009Phạm QuỳnhThơ có hai phần: một là âm điệu, hai là tình tứ. Âm điệu là phần hình thức, tình tứ là phần tinh thần. Âm điệu tức là cách dùng chữ xếp vần, cho có âm hưởng tiết tấu để đọc cho êm tai vui miệng. Tiếng mỗi nước một khác thì âm điệu cũng không giống nhau, nên thi luật của nước nào là riêng cho nước ấy, không thể chuyển dịch sang tiếng nước khác được.
  • Thơ, thay đổi để tồn tại

    13/03/2009InrasaraMỗi trường phái mới bằng mỗi thử nghiệm hay mỗi bước chuyển đều có sự thất bại hay thất thố bên cạnh bật lên các đại biểu xuất sắc của nó. Nhà phê bình không thể dùng tiêu chí thẩm mĩ này để đánh giá sáng tác thuộc hệ mĩ học khác. Càng không đánh giá sáng tác thuộc mĩ học mới qua những sản phẩm kém cỏi được. Nhà tư tưởng chỉ có thể bị vượt qua khi phần vô ngôn của tư tưởng ông ta được khai mở trọn vẹn, - Heidegger nói thế. Một trào lưu văn nghệ chỉ có thể bị vượt bỏ khi chính tác phẩm đại biểu xuất sắc của nó bị vượt qua. Vượt qua, không phải người đọc không còn thưởng thức nó nữa, mà là: người viết hết còn sáng tác theo vết mòn của nó!
  • Trò chuyện với nhà thơ Lão Thực

    09/12/2006Vũ Ngọc TiếnCó một thời ấu trĩ, hễ ai nhắc đến Hiện sinh còn bị chuốc vạ vào thân, đã kìm hãm sự phát triển văn học Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ XX. Đáng tiếc, bước vào đổi mới, có một số người, để tỏ ra mình cấp tiến hơn các bạn viết, đã cố gồng cây bút lên cho có vẻ Hiện sinh, mà có khi Hiện sinh là gì họ còn chưa hiểu hết, sách Hiện sinh chắc gì đã đọc cho nghiêm túc. Ngược lại, có không ít người lại tỏ ra dị ứng, ác cảm với Hiện sinh. Triết học nào lập ra cũng vì con người, hướng dẫn con người đi tìm đến cội nguồn của hạnh phúc...
  • Nhà thơ trong thiên văn học

    11/10/2006
  • Yếu tính của thơ

    29/06/2006Hầu hết chúng ta ngày nay đều đồng nhất thơ với văn vần. Đối với chúng ta, một bài thơ là một trước tác được sắp xếp theo các dòng chữ có một mẫu hình xác định về nhịp điệu, và bày tỏ những cảm tưởng và ấn tượng cá nhân. Chúng ta phân biệt thơ với văn xuôi, là loại ngôn ngữ của hành ngôn và trước tác thông thường. ...
  • Thơ là giọng, là phong cách của tư tưởng

    07/04/2006Thiếu chúng ta, thế giới vẫn hoàn chỉnh. Một sự thật không thể khoan thứ. Nhà thơ đáp lại bằng cách nổi loạn, muốn chứng tỏ rằng không phải thế. Do lòng tự đại bị tổn thương, niềm tự hào ương ngạnh hoặc nhu cầu tuyệt vọng, nhà thơ kinh niên tranh cãi với sự thật, và một điều kinh ngạc xảy ra: một sự thật khác được tạo nên, giống như một thành tố mới có phần đối nghịch với điều không thể khoan thứ.
  • Thơ hay là cái chết của thời gian

    28/09/2005Ngô Tự LậpVề thơ như là một tổ chức ngôn ngữ quái đản. Tiểu luận Thơ là gì là một bài viết rất đặc trưng cho phong cách của ông Phan Ngọc: nhiều tâm huyết nhưng cũng nhiều võ đoán. Suốt bài viết với giọng cực kỳ tự tin này lấp lánh đây đó những nhận xét sâu sắc bên cạnh những từ ngữ và thuật ngữ cố tình lạ tai gây cảm giác khó chịu: “Quái đản”, tính thao tác”, “sự thức nhận”… (Tôi xếp vào loại này cả những từ to tát không cần thiết khác như vượt gộp", "thao tác luận"... rất nhiều trong các bài viết của ông). Mặc dù thú vị, bài viết này, theo tôi, có nhiều điểm chưa thích đáng, cả trong các nhận định lẫn trong thao tác khoa học.
  • Thơ ca như một thứ tôn giáo

    21/10/2005Nhà thơ Trần Anh TháiKín đáo và ngại ngùng bởi không muốn nói nhiều về mình và tập thơ Trên đường vừa xuất bản, nhưng nhà thơ Trần Anh Thái tỏ ra cởi mở hơn khi đề cập đến thơ ca và công việc sáng tác của người nghệ sĩ. Dưới đây là cuộc trò chuyện của phóng viên với nhà thơ...
  • Nhà thơ - người thợ lành nghề hay nhà tiên tri?

    08/09/2005Những lý thuyết về thơ từ những thời kỳ xa xưa đều xoay quanh ý niệm nhà thơ như người thợ thủ công khéo léo, như nhà tiên tri đầy cảm hứng, hay như một sự kết hợp thế nào đó của cả hai. Trong thế giới cổ đại, từ “thơ” nguyên nghĩa là “chế tác”, và bao gồm mọi hình thái sáng tạo sinh sôi của con người – chế tác những cái hũ cũng như chế tác những bài thơ. Nhưng nó sớm mang ý nghĩa nghệ thuật “chế tác” văn chương, sự trình bày có tính chất tưởng tượng về hành động, tính cách, và cảm xúc con người – thông qua từ ngữ. “Sự chế tác” như vậy bao gồm những tác phẩm kịch, ...
  • Thơ là gì ?

    30/09/2005Phan NgọcTrong quá trình xây dựng bộ "Phong cách học cấu trúc tiếng Việt", tôi bắt buộc phải định nghĩa lại các khái niệm, bởi vì các khái niệm trước đây về phong cách học là dựa trên nhận thức cảm tính về cái đã có, còn công trình của tôi mang tính thao tác, phải tìm cái lý do, cái sở dĩ của các hiện tượng đã được xem là hiển nhiên....
  • xem toàn bộ