Nho giáo và pháp luật

12:25 CH @ Thứ Năm - 08 Tháng Sáu, 2017

Nho giáo, “một cái nhà đẹp, lâu ngày không ai sửa sang, đến nỗi bị cơn gió bão đánh đổ bẹp xuống”, tưởng như đã hoang tàn vụn nát trước đủ luồng triết lý Tây phương, liệu có còn giá trị đáng kể gì trong cuộc kiến thiết hệ thống pháp luật Việt Nam. Một câu hỏi lớn, chắc sẽ còn day dứt người đương thời và các thế hệ con cháu mai sau. Bài viết dưới đây bước đầu nghiên cứu vai trò và giới hạn của pháp luật trong những phương cách tác động đến thói quen hành xử của con người, sự tương tác giữa các phương pháp của Nho giáo và phương pháp điều chỉnh của pháp luật, cũng như đưa ra một vài thiển ý góp phần làm cho pháp luật nước ta ngày càng gần hơn với cuộc đời.

Các giáo trình nhà nước và pháp luật đại cương ngày nay thường hối hả phổ biến những phương thức tổ chức kinh tế, xã hội từ Cộng sản Nguyên thuỷ, xã hội Nô lệ, xã hội Phong kiến, xã hội Tư bản, xã hội Xã hội Chủ nghĩa và tiến tới Cộng sản Chủ nghĩa, thậm chí có lúc “cố gọt bỏ thực tế của dân tộc mình để làm sao nhét nó vào được cái khuôn khổ đã có sẵn ấy”. Từ thuyết đó, nảy sinh ra các kiểu nhà nước, các kiểu pháp luật. Khi cắt nghĩa nhà nước và pháp luật, người ta dựa vào triết lý pháp quyền phương Tây, mà không bắt nguồn tử triết lý sống của người Việt Nam về vũ trụ, con người và xã hội. Có những tư duy mới được vay mượn vào nước ta, ví dụ “nhà nước pháp quyền”, nếu chưa biết quy nạp vào đâu, thì cứ theo công thức sáo mòn ấy, không ít người suy luận bừa rằng đó cũng là một kiểu nhà nước. Tuy nhiên giới học thức đúng đắn đã bắt đau tỉnh ngộ; “pháp luật không chỉ là công cụ” trong tay người cam quyền.

Nếu cứ theo khuôn khổ đó, thì điều gì là riêng biệt trong lịch sử phát triển nhà nước và pháp luật Việt Nam. Bên cạnh nền văn hóa Trung Hoa, nền văn hóa pháp luật Việt Nam có những đặc sắc gì? Hết thảy những điều này đều cần có lời giải đáp, bởi con người hành xử theo thói quen, tập tục, bản lĩnh, tâm thức của dân tộc mình. Sau chiến tranh lạnh, ý thức hệ tư tưởng không còn là hố ngăn con người. Tự do thương mại toàn cầu làm cho pháp luật được hài hoà hoá ngày càng nhanh. Trong bối cảnh đó, níu giữ lấy bản sắc văn hóa dân tộc, trong đó có văn hóa pháp lý, trở nên hệ trọng, hệt như giữ lấy sự độc lập quốc gia trước sự xâu xé của thực dân trong thế kỷ XIX. Muốn giữ quốc tuý và rửa nhục nghèo nàn cho đất nước, mượn cách nói của cụ Lương Văn Can (bảo quốc tuý, tuyết quốc sỉ), người học luật nước ta trước hết phải hiểu và tìm cách tôn vinh văn hóa pháp lý và triết học pháp quyền của dân tộc mình.

Con người suy nghĩ như thế nào thì hành xử như vậy. Muốn hiểu luật pháp và cách thức tổ chức xã hội Việt Nam, phải hiểu lịch sử hình thành tư tưởng Việt Nam. Chỉ có như vậy mới giải thích được cái mà người Việt Nam tôn kính, yêu quý, căm ghét hoặc sợ hãi mới hiểu cung cách mà người Việt Nam tổ chức các sinh hoạt của mình - cung cách sinh hoạt đó chính là văn hóa. Tư tưởng của người Việt Nam có thể tạm phân chia thành hai loại: (i) tư tưởng bình dân, hình thành trong nếp nghĩ của nhân dân, được truyền lại cho hậu thế bằng đủ loại văn hóa dân gian, (ii) tư tưởng hàn lâm, bác học, được xây đắp nên bởi những người am hiểu chữ nghĩa. Những tư tưởng truyền thống đó phải được nghiên cứu và truyền lại cho con cháu, trước khi vay mượn học thuyết của dị chủng.

Nho giáo là một trong những nền tảng quan trọng hình thành nên tư tưởng của người Việt Nam. Có người xem Nho giáo như một thứ tôn giáo và cho rằng văn hóa nước ta chịu ảnh hưởng của tam giáo (Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo). Thực ra, Nho giáo không phải là một thứ chủ nghĩa, một ý thức hệ, bởi Khổng Tử không phải là người phát kiến ra thứ tư duy đó. Nho giáo cũng không phải một thứ tôn giáo do Khổng Tử làm đạo trưởng, kiểu như Thiên chúa giáo của Chúa Giê-su. Nho giáo là một cách sống, một triết lý sống mà theo nó thì con người cảm thấy thoải mái, thái bình: từ chuyện nhỏ trong gia đình, trong dòng họ, chuyện ngoài làng cho tới quốc gia đại sự. Thứ triết lý này đã là nền tảng cho xã hội Việt Nam từ hàng nghìn năm nay; đã đi sâu vào tâm thức người dân, sâu thẳm và tự nhiên đến nỗi “không có dấu vết nào của văn hóa Việt Nam. .. mà không có tính chất Nho giáo”.

Trong quá trình phát triển, mỗi thời đại có cách hiểu riêng về Nho giáo, có nhiều trường phái Nho giáo khác nhau, tử Nho giáo Nguyên thuỷ, Hán nho, Đường nho, Tống nho, Tân nho, Cựu nho, Hàn Nho (Nho giáo Hàn lâm) và Nho giáo dân gian... tuy nhiên trong cái vạn biến đó chắc phải có những cái gốc rễ bất biến. Thêm nữa, với tính cách là một tư tưởng sống, Nho giáo, đặc biệt Tống Nho, đã thu nạp triết lý của Phật giáo, Lão giáo và tín ngưỡng bản địa, tích tụ lâu ngày mà thành một đạo đức sống. Người Nhật, người Hàn, Hoa kiều, (và bây giờ là người Hoa trong đại lục) đã và đang làm giàu cho đất nước của họ, mà không muốn phá vỡ triết lý sống cổ truyền này. Khi đã trở thành tư tưởng, tâm thức một dân tộc, thì dù có bị phủ nhận, Nho giáo vẫn sống dai dẳng trong cách suy nghĩ và ứng xử của người dân. Bởi vậy, học lại triết lý truyền thống để giải thích nhà nước và pháp luật chính là học cách suy nghĩ cổ truyền của ông cha để cắt nghĩa những hiện tượng thời nay. Đây chính là một điểm then chốt làm cho pháp luật trên giấy trở lại ngày càng gần hơn với những suy nghĩ và nguyện ước của người dân, chỉ có như vậy luật pháp mới sống lâu bền trong tâm thức nhân dân. Nếu không làm như vậy, mọi tư tưởng vay mượn từ bên ngoài rồi sẽ bị lãng quên như cơn mưa bụi trong lịch sử nghìn năm văn hiến.

Sự hoang tàn vụn nát của Nho giáo trước đủ luồng triết lý Tây phương có nhiều nguyên nhân sâu xa; có thể bắt đầu bởi phong trào Tây học, lẫn lộn giữa văn minh và văn hóa trong khi Nho giáo ngơ ngác không biết làm thế nào” để theo kịp văn minh phương Tây, cũng có thể bắt đầu bằng phong trào dùng chữ quốc ngữ của các nhà cách mạng, vô tình mà tạo ra cái hố sâu thẳm làm cho con cháu không còn đọc được gia phả của tổ tiên. Thêm nữa, tuy không rộ lên phong trào chống Nho giáo và bài bác Khổng Tử gay gắt như đã xảy ra ở Trung Quốc sau cách mạng Tân Hợi, song trên thực tế Nho giáo đã mất đi vai trò của một chủ thuyết tư tưởng để tổ chức xã hội ở nước ta. Đôi khi người ta chỉ vay mượn cách nói cũ của Nho giáo để tuyên truyền tư tưởng chính trị mới vay mượn từ phương Tây. Chỉ mới gần đây, Nho giáo mới được nghiên cứu trở lại ở nước ta, hầu như là sự quay về nguồn gốc một cách tự phát theo bản năng. Điều này thật đáng hổ thẹn, bởi thậm chí văn minh phương Tây ngày nay cũng tăng cường nghiên cứu văn hóa phương Đông; các cơ sở nghiên cứu Nho học nhan nhản tù Âu sang Mỹ báo hiệu một sức hấp dẫn kì lạ của triết lý sống phương Đông trong thời buổi hiện đại ngày nay.

Phương cách điều chỉnh hành vi của Nho giáo: Giống như mọi triết lý phương Đông khác, con đường nhận thức, khám phá và chinh phục các quy luật của thế giới bên ngoài bắt đầu bởi những bước đi hướng vào nội tâm để tìm lấy sự hài hoà giữa cá nhân và vũ trụ. Theo sách Trung Dung, “trời sinh ra người phú cho cái tính, mà thể theo cái tính ấy làm đường lối cư xử hàng ngày, gọi là đạo. Bởi khí chất bẩm sinh tính tình mỗi người một khác nhau, kẻ quá thái người bất cập, dạy tu sửa cho thích trung gọi là giáo. Nếu con người đã sửa được tính tình, thì khi mừng, lúc giận, lúc yêu thương khi chưa phát thường giữ được trung bình, mà khi phát ra có tiết độ thường giữ được ôn hoà. Trung là tính không thiên lệch làm căn bản cho lẽ phải, hoà là không trái ngược làm đường lối thông cho cả thiên hạ, cho nên đạo Khổng là đạo trung dung”.

Theo quốc sử Trung Hoa, (năm 536 tr. CN) Tử Sản vua nước Trịnh ban hành Hình thư (sách Thi pháp luật), sau đó Phạm Tuyên Tử (năm 513 tr. CN) vua nước Tấn sai khắc pháp luật vào cái vạc là vật để nấu người có tội. Từ Quản Trọng, cho đến Hàn Phi và Lý Tư, một tư tưởng trị được bằng pháp luật đã hình thành từ thời cổ đại, mà người ta quen gọi là trường phái pháp trị. Nhân trị và pháp trị là hai trong vô số các luồng tư tưởng thời Xuân Thu- Chiến quốc, cuộc tranh luận của hai học phái tiêu biểu này đã góp phần hình thành diện mạo của pháp luật các nước phương Đông chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Nước Tần theo tư tưởng pháp trị của Thương Ưởng; từ những năm 350 trên tiến hành tư hữu hoá ruộng đất, xoá bỏ độc quyền của giới quý tộc; toàn dân làm hai việc sản xuất và chiến đấu, có lẽ bởi vậy một trăm hai mươi năm sau (năm 227 tr. CN) nước Tần trở nên hùng mạnh, Tần Thủy Hoàng thống nhất được thiên hạ.

Đọc những áng văn mà Hàn Phi (280 - 233 tr. CN), đại diện tiêu biểu nhất cho học phái Pháp trị viết trong ngục tù và “sự đau khổ trí tuệ”, hơn hai nghìn năm sau, người ta không thể không kinh ngạc về tư duy sắc sảo và những nhận xét còn nguyên giá trị cho thời nay của con người uyên bác này. Theo Hàn Phi:

(i) pháp luật trước hết phải minh bạch, “chỉ riêng có pháp luật minh bạch mới giúp ích cho sự thực hiện một nền thịnh trị”.

(ii) pháp luật phải được áp dụng nghiêm minh, “pháp là phép tắc hiệu lệnh rõ ra ở chỗ công, hình phạt là để lòng dân quyết chắc mà theo. Ai giữ phép cẩn thận thì thưởng, trái lệnh thì phạt”.

(iii) pháp luật phải được áp dụng công bằng từ người có quan tước đến thường dân, “pháp luật không hùa theo người sang.. khi đã thi hành pháp luật thì kẻ không cũng không thể từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu”.

(iv) nếu như thuyết “chính danh” của Nho giáo nhằm củng cố giai cấp; thì thuyết “hình danh” của Hàn Phi vô tình hay hữu ý nhằm xoá bỏ đẳng cấp, mọi người ngang quyền trước pháp luật, “Căn cứ vào công việc mà xét kết quả. Nếu kết quả phù hợp với việc làm, việc làm phù hợp với lời nói thì thưởng. Nếu kết quả không phù hợp với việc làm, việc làm không phù hợp với lời nói thì phạt.

Dù Tần Thủy Hoàng có cảm kích khi đọc sách của Hàn Phi bao nhiêu, sau khi nhà Tần sụp đổ, học thuyết hình danh của Pháp gia đã không thắng nổi thuyết nhân trị của Nho giáo. Lưu Bang (Hán Cao Tổ) ngồi trên yên ngựa mà lấy được thiên hạ, song phải dùng thuyết “ngoại Nho nội Pháp”- (bề ngoài dùng sự khôn khéo của Nho, bên trong dùng tính pháp) của Lữ Gia để giữ yên thiên hạ. Bắt đầu từ đây, một chủ trương lựa chọn, phối hợp những tư tưởng của Nho giáo và Pháp giáo để trị nước đã xuất hiện. Cũng từ đó, tinh thần Nho giáo thấm đượm trong pháp luật phương Đông. Nho giáo không phủ nhận, không bài bác, song xem nhẹ việc dùng hình phạt nặng nề, xem nhẹ pháp luật; xã hội được tổ chức theo triết lý nhân trị: lấy sự tự giáo dục theo “nhân, nghĩa, lễ trí, tín” để làm nguyên tắc “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Các nguyên tắc đạo đức của Nho giáo được xây dựng và bồi bổ qua nhiều đời, đã thay thế một phần đáng kể chức năng của pháp luật.

Vì “dân vi quý, xã tắc thứ chi”, luật pháp sinh ra không phải để phục vụ nền quan chế, mà trước hết để phục vụ lợi ích nhân dân. Muốn vậy, theo thiển ý của tôi, có thể xem xét sáu điểm dưới đây:

Thứ nhất, nếu pháp luật gần với nhu cầu, mong ước và tiếng nói của người dân, người dân sẽ vui vẻ tự nguyện tuân theo luật đó; khi ấy pháp luật gần với cuộc sống và có hiệu lực cao. Ngược lại, nếu pháp luật trái với lẽ tự nhiên, trái với dân nguyện, thì dù có dùng hình phạt nặng nề mà răn đe và cưỡng bức, thứ luật đó tất sẽ bị số đông dân chúng đào thải. Khi đó, cái gọi là hợp pháp thì trở thành ngoại lệ, cái bất hợp pháp trở thành phổ biến. Như vậy làm cho pháp luật trở nên nghiêm minh chính là làm cho pháp luật đại diện tiếng nói và lợi ích của nhân dân ngày một tốt hơn. Sự thiếu luật, chồng chéo và mâu thuẫn giữa các văn bản luật hoặc thiếu nhân viên công lực thi hành luật.. chỉ là những lý do mang tính hình thức, tức thời. Điều quan trọng là phải làm cho tinh thần pháp luật gần với tâm thức và nguyện ước của nhân dân. Nhân dân Việt Nam là 80 triệu người, cần thiết phải có những thiết chế tập hợp và đại diện quyền lợi đa dạng của họ. Từ đó sinh ra đoàn thể, hội hiệp, tôn giáo, đảng phái... hàng vạn ngọn đuốc đó khơi sáng lên cái gọi là ý chí nhân dân- một ý chí tối thượng buộc mọi quyền lực nhà nước phải cúi xuống tuân thủ.

Thứ hai, nếu xem xét từ chủ quyền nhân dân, dân là gốc còn nhà nước chỉ là công cụ (dân vi quý, quân vi khinh, xã tắc thứ chi) - chứ nhân dân không phải là công cụ của nhà nước, thì cần phải định nghĩa lại pháp luật và phương cách thi hành luật. Không chỉ là những quy tắc ứng xử của con người được nhà nước ban hành, pháp luật phải là ý nguyện của nhân dân được nói lên thành luật. Người nói lên cái ý chí nhân dân đó không chỉ là cơ quan lập pháp dân cử, mà còn là cơ quan tư pháp, đại diện cho nhân dân để phát ngôn ra công lý và muôn vàn hội hiệp của nhân dân. Trong thời hiện đại luật cứng nhắc (văn bản do nhà nước ban hành) đang được thay thế bởi luật mềm (vay chữ soft-law của phương Tây), do muôn vạn thiết chế xây dựng nên; khi được công quyền thừa nhận, những quy tắc ứng xử này trở thành luật. Bởi vậy, xây đựng và thực hiện pháp luật ngày nay không còn là độc quyền nhà nước; lập quy và thực hiện quy ước phải là công việc của toàn thể nhân dân. Chức năng của nhà nước là đảm bảo cho quy trình lập và thực hiện quy ước đó diễn ra một cách tự do và bình đẳng.

Thứ ba, từ quy tắc sống của cộng đồng dân cư, tục lệ sinh hoạt theo họ hàng, hương ước của làng xóm, cho tới văn bản lập quy của chính quyền địa phương các cấp, lợi ích đa dạng của nhân dân cần được đại diện qua vô vàn các thiết chế và tổ chức xã hội. Nghiệp đoàn và đảng phái là những tổ chức đại diện như vậy. Đảng Cộng Sản Việt Nam là một tổ chức chính trị cầm quyền, tất nhiên có một vị trí rất trọng yếu trong quy trình lập quy và thực thi pháp luật hiện nay; dân giàu hay nghèo, nước mạnh hay suy một phần cơ bản đều do đường lối của Đảng Cộng Sản. Các văn kiện chính trị của Đảng là cơ sở hình thành nên luật pháp, các chính sách kinh tế xã hội đều được tiến hành trước hết dựa trên cơ sở các nghị quyết của Đảng; cùng với thời gian chính phủ và các cơ quan nhà nước khác mới lần lượt ban hành văn bản pháp quy để hướng dẫn thi hành đường lối đó. Nói cách khác, ý chí chính trị của Đảng Cộng Sản hiện nay là tinh thần chủ yếu cho pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, do kỹ thuật lập pháp còn chưa đạt nên việc chuyển hoá chúng thành văn bản pháp luật đôi khi còn vụng về đến nỗi người ta vẫn nhận thấy sự nhầm lẫn và hòa đồng giữa định hướng chính trị và quy phạm pháp luật.

Thứ tư, khi nhà nước nhường dần chức năng kinh doanh cho dân doanh, giới doanh nhân dần sẽ trở thành một lực lượng có sức mạnh tìm cách thao túng đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, và đương nhiên họ tìm cách thao túng cả chính trị và pháp luật. Điều đó là tất yếu, bởi doanh nhân cũng là nhân dân, thậm chí là một bộ phận lãnh đạo, dẫn đầu xã hội trong việc tạo của cải và thịnh vượng cho dân tộc. Thông qua nghiệp đoàn và các nhóm lợi ích, khi công khai, khi ngấm ngầm, doanh nhân một mặt gây sức ép với chính phủ và các cơ quan lập pháp, mặt khác có thể tìm cách thao túng cả tư pháp. Hiện tượng các toà án địa phương ở Trung Quốc chịu sức ép của chủ nghĩa cát cứ địa phương là một ví dụ cho xu hướng này. Bên cạnh đó, doanh nhân ngày càng nhận thức được quyền tự lập quy và sử dụng công cụ này để phản ứng nhanh chóng với thị trường và thay đổi của pháp luật. Đây là một hiện tượng còn ít được đề cập trong luật học Việt Nam.

Bên cạnh pháp luật, các giao dịch kinh tế trên thị trường bị chi phối một cách đáng kể bởi

Nguồn:
LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Luận bàn về Pháp luật

    05/11/2015Nguyễn Trần BạtVai trò định hướng ứng xử không chỉ thuộc về đạo đức mà còn thuộc về pháp luật. Những nhà triết học ngay từ thời cổ đại, cả ở phương Đông lẫn phương Tây, đều nói đến vai trò to lớn của pháp luật...
  • Nguồn cội của pháp quyền

    30/10/2014TS. Nguyễn Sĩ DũngHiện nay, theo nhận thức của đa số người Việt chúng ta, Nhà nước pháp quyền là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. So với việc quản lý xã hội bằng mệnh lệnh hành chính, cách hiểu này là một tiến bộ to lớn trong tư duy pháp lý của người Việt. Tuy nhiên, pháp quyền là một cái gì đó vĩ đại và tốt đẹp hơn như thế rất nhiều...
  • Pháp luật – Tài sản tinh thần của nhân dân

    21/02/2014Nguyễn Trần BạtXuất phát từ đòi hỏi xã hội phải được điều chỉnh bởi những quy tắc nhất định, pháp luật đã ra đời. Bản chất của pháp luật là các khế ước xã hội, tức là kết quả của sự thỏa thuận của mọi người. Nếu thỏa mãn điều kiện này, sự tự nguyện nhượng bớt một phần tự do cá nhân sẽ đưa đến sự hình thành của nền dân chủ ở đó, tự do không chỉ đơn thuần là tự do bản năng mà sẽ có chất lượng cao hơn, tức là tự do mang trong mình sự hài hòa lợi ích giữa các cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng và ở mức độ cao hơn nữa, tự do như là, phát triển...
  • Triết lý chính trị- xã hội & pháp luật

    13/08/2009William S. Sahakan & Mabel. Sahakan- Thanh Chân dịchCó thể nói quá trình phát triển của loại hình triết học chính trị, xã hội và pháp lý theo truyền thống văn minh phương Tây đã bặt nguồn từ thời Plato. Ngay từ thời đại ấy, các triết gia đã tìm cách xác định bản chất và ý nghĩa của những gì được gọi là xã hội tốt đẹp, nhà nước và xã hội mẫu mực phải có những đặc điểm gì...
  • Sự "vô nghĩa" của pháp luật!

    23/04/2008Lê Thanh PhongTheo báo cáo của Bộ Tư pháp tại phiên họp Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày 19.4, năm 2007 có 311.443 án dân sự tồn đọng, không thi hành được, chiếm 48% số vụ việc...
  • Tính cạnh tranh của nền pháp luật

    27/12/2005Nguyên LâmTính cạnh tranh của nền pháp luật phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trước hết, phụ thuộc vào những người làm ra luật, tức là Quốc hội và một phần nào đó là Chính phủ...
  • Những cái giàu của một nền lập pháp

    02/11/2005Nguyễn Đức LamDịp năm hết Tết đến người ta hay chúc nhau “an khang thịnh vượng”. Nếu thịnh vượng gắn về sự giàu có, thì an khang là cái gì đó thuộc về tinh thần, văn hoá, sự bình an trong lòng xã hội và đất nước, trong tâm hồn mỗi người, an tâm làm ăn, sinh sống. Một nền lập pháp mà hướng đến những cái giàu về tài sản, về văn hoá, về quyền, về lợi ích của người dân, của xã hội, của đất nước thì ắt hẳn sẽ mang đến sự an khang, thịnh vượng ấy...
  • Sách "Bàn về khế ước xã hội"

    06/07/2005Bàn về khế ước xã hội” cũng đề cập những vấn đề nêu trên nhưng đi theo hướng tư duy hoàn toàn khác: Nếu như Montesquieu muốn khám phá cái “trật tự, cái quy luật trong mớ hỗn độn các luật pháp ở mọi xứ sở và mọi thời đại” thì Rousseau lại cố gắng tìm kiếm trong cái “trật tự dân sự có hay không một số quy tắc cai trị chính đáng, vững chắc, biết đối đãi với con người như con người”;
  • Sách "Bàn về tinh thần pháp luật"

    06/07/2005Hai tác phẩm: “Bàn về tinh thần pháp luật” (1748) của Montesquieu và “Bàn về khế ước xã hội” (1762) của Rousseau ra đời, trở thành bộ đôi tác phẩm có ý nghĩa khai sáng về quan điểm pháp chế, vạch ra định hướng xây dựng xã hội công dân, nhà nước pháp quyền, mở đường cho tư duy xã hội Pháp đi tới cuộc đại cách mạng tư sản năm 1789. Nhiều quan điểm trong hai tác phẩm này đã trở thành những nguyên tắc pháp lý chi phối sâu sắc đến sự phát triển của nhà nước và pháp luật hiện đại.
  • xem toàn bộ