Bình đẳng về Danh dự và Phẩm giá

Nghiên cứu sinh kinh tế và triết học, Hoa kỳ
08:04 CH @ Thứ Năm - 25 Tháng Chín, 2014

Bình đẳng trở thành một trong những triết lý quan trọng nhất của xã hội phương tây kể từ cuộc cách mạng Pháp cách đây hơn 200 năm, cùng với khẩu hiệu nổi tiếng “Tự do, Bình đẳng, Bác Ái”. Bình đẳng là một ý tưởng gây tranh cãi của triết học, bởi liên quan đến nhiều khái niệm phức tạp. Tuy nhiên từ khoảng 1960 tới nay, một trong các khái niệm này, Bình Đẳng Đạo Đức, đã đạt được sự đồng thuận cao trong mọi trường phái triết học và được ứng dụng rộng rãi trong văn hóa phương tây. Mọi học thuyết mới đi ngược lại với khái niệm này đều coi là không đủ sức thuyết phục.(1)

Bình đẳng Đạo Đức có nghĩa là về nguyên tắc, tất cả mọi người trong xã hội đều bình đẳng với nhau về Danh dự và Phẩm giá, xứng đáng được tôn trọng và quan tâm như nhau. Điều này có vẻ khó tin, bởi xã hội nào cũng có người giầu, kẻ nghèo, người địa vị cao, kẻ không địa vị. Nhưng trên thực tế, người phương tây từ nhỏ đã được giáo dục để hiểu rằng phân biệt đối xử là bất lịch sự, thậm chí vô nhân đạo. Và họ cố gắng áp dụng Bình đẳng Đạo đức ở mọi nơi có thể.

Hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay là các xã hội Trọng Tài. Triết lý của một xã hội Trọng tài là tài năng được khuyến khích đầy đủ thì sẽ tạo ra nhiều của cải vật chất, thúc đẩy xã hội phát triển. Tuy nhiên, tài năng là một khái niệm trừu tượng và thường được người đời đo bằng Tiền bạc, Địa vị xã hội, Bằng cấp, Giải thưởng. Sự khác biệt giữa các quốc gia phát triển ở phương tây và các quốc gia kém phát triển phương đông là ở chỗ: ở phương tây, con người chỉ khác nhau trên phương diện vật chất, về vị trí làm việc, nhưng được bình đẳng với nhau về mặt tinh thần; trong khi ở phương đông, nếu bị coi là kém tài thì cả vật chất lẫn tinh thần đều bị thua thiệt. Theo tháp Tâm lý của Maslow, Nhu cầu được Tôn trọng là một trong những Nhu cầu Cơ bản nhất của con người (chỉ sau các Nhu cầu Bản năng: Ăn, Ngủ, Hít thở,…). Chính vì vậy ở phương đông, cuộc sống của những người nghèo, người ít địa vị trở nên khổ sở, nhiều mặc cảm, tự ti hơn. Trong khi đó họ lại là lực lượng chiếm đa số trong xã hội.

Liên quan đến vấn đề này, John Rawls, một trong những triết gia hàng đầu của thế giới, đã dành 20 năm nghiên cứu để viết cuốn Lý thuyết về sự công bằng(2) rất nổi tiếng. Lý thuyết của ông được ứng dụng trong nhiều ngành khoa học xã hội. Trong đó ông nhấn mạnh “Tài năng cũng là một dạng may mắn”. Có thể coi Tài năng, Sắc đẹp, Dòng dõi Trâm anh Thế phiệt là các dạng may mắn bẩm sinh. Quý Nhân Phù Trợ, Xổ số độc đắc, Môi trường thuận lợi…là các dạng may mắn do xã hội mang lại.

Xã hội phương Đông thường cho rằng người tài bị người kém tài hơn chiếm mất vị trí là bất công, mà quên mất bất công của người kém tài hơn phải chịu đựng từ lúc sinh ra. Ngay cả trong trường hợp cố gắng hết mức thì một người cũng chỉ đạt được thành công trong đời ở mức độ nào đấy. Và như vậy, xã hội phương đông khuyến khích con người chấp nhận bất công do bẩm sinh. Phân bố tài năng của loài người theo hình tháp, càng lên cao càng ít người đạt được. Có nghĩa, số người được tôn trọng tối đa ở xã hội phương đông rất ít, số người ở mức độ được tôn trọng thấp vô cùng đông đảo.

Nhiều người cho rằng điều này là đương nhiên, kém tài hơn thì rõ ràng ít được tôn trọng hơn. Tuy nhiên, dưới góc độ triết học thì điều này không đương nhiên một chút nào, bởi không ai muốn mình bị sinh ra kém tài. Nếu như đa số người trong một xã hội, dù nỗ lực tối đa cũng chẳng thể đạt được sự tôn trọng tối đa có nghĩa là xã hội Trọng Tài ấy cũng tồi tệ chẳng kém gì các xã hội Trọng Chủng Tộc, Trọng Dòng Dõi, bởi vì nó dựa trên những đặc điểm không thể thay đổi của con người. Không ai muốn mình sinh ra là người da đen ở châu Mỹ thế kỷ 19. Cũng không ai muốn mình có nguồn gốc gia đình là nô lệ để tiếp tục đời mình cũng làm nô lệ, nếu ở thời Trung Cổ. Nếu bạn lười lao động nên bạn không có tiền là điều hợp lý. Tuy nhiên nếu bạn cố gắng hết sức nhưng vì tài năng có hạn, hoặc vì bạn là người da đen, bạn có bố mẹ là nô lệ nên bạn không thể được tôn trọng tối đa, thì lại không hợp lý chút nào. Chưa kể, số lượng người phải chịu thiệt thòi dù ít dù nhiều, trong một xã hội mà sự tôn trọng dựa trên Tài Năng, vô cùng đông đảo.

Hậu quả của Bất Bình Đẳng Đạo Đức là tạo ra một xã hội thiếu nhân văn:
(i) Đa số công dân trong xã hội ít nhiều đều bị tổn thương về mặt tinh thần, bởi họ không được tôn trọng cao như mong muốn. Cùng một kiếp người, kẻ thì được sùng bái như thánh thần, kẻ thì bị coi như rơm rác.
(ii) Sinh ra những con người thoái hóa nhân cách, luồn cúi kẻ trên, nạt nộ kẻ dưới, không từ những thủ đoạn xấu để dành được Tiền bạc, Địa vị xã hội, Bằng cấp, Giải thưởng…để được coi là Tài năng. Người Việt rất bất lịch sự ở nơi công cộng, ít khi nói “xin lỗi”, “cám ơn” những người gặp thường ngày, trong khi rất giỏi xu nịnh những kẻ chức quyền;
(iii) Tiếng nói của đa số công dân không được trân trọng cho nên họ không tích cực tham gia ý kiến vào các công việc cộng đồng, không đấu tranh chống tiêu cực, mà chỉ lên tiếng khi lợi ích của bản thân bị xâm hại.

Sự thiếu tôn trọng người khác còn thể hiện ở chỗ không có khả năng cấp nhận ý kiến khác biệt. Người Việt vô tư can thiệp vào công việc của người khác khi họ không yêu cầu; khăng khăng áp đặt quan niệm, chuẩn mực của mình lên người khác mà không cần biết họ là những thực thể khác mình, lớn lên trong môi trường khác và được gia đình giáo dục hoàn toàn khác. Đã có nhiều công việc hợp tác thất bại, đặc biệt là các công việc vì cộng đồng ít mang lại lợi ích cá nhân, bởi những người khởi xướng không thực sự tôn trọng đối tác, hoặc cho rằng với tuổi tác, tài năng, địa vị, kiến thức…của mình, những người kia có nghĩa vụ phải tuân theo các “sáng kiến” của mình. Mặc dù một số hoạt động chuyên môn vẫn cần những trật tự nhất định, tuy nhiên ở những nơi công cộng và trong các lĩnh vực chính trị xã hội mà mọi công dân đều có khả năng thấu hiểu, sự tham gia của tất cả mọi người đều cần phải được trân trọng ngang nhau.

Bình Đẳng Đạo Đức cũng phù hợp với các triết lý tôn giáo. Đức Phật từ các đây hơn 2000 năm từng dạy :”Không có sự khác biệt giữa những giọt nước mắt cùng mặn và những giọt máu cùng đỏ”. Kinh thánh cũng có câu “Tất cả các linh hồn đều bình đẳng trước Chúa”. Một xã hội Bình đẳng Đạo đức không đòi hỏi ai phải biết ơn ai, (trừ những người trực tiếp giúp đỡ mình), để tránh sự thần thánh hóa cá nhân. Đại diện của xã hội sẽ tri ân những người có nhiều đóng góp với xã hội nhưng từng cá nhân thì không tự động có nghĩa vụ ấy. (Mặc dù ngay cả tri ân như thế nào là vừa cũng cần phải tranh luận). Điều này còn có nguyên do là cuộc sống của mỗi người bao gồm cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Người tài được xã hội tri ân không phải vì họ tài năng hơn người mà bởi họ góp phần tạo ra của cải vật chất cho cộng đồng. Tuy nhiên người tài không tạo ra được, mà ngược lại, có thể làm tổn hại những giá trị tinh thần quan trọng nhất của những người khác – đó là sự tự tôn và sự trân trọng của xã hội đối với họ. Hạnh phúc chân chính của mỗi người phải do chính bàn tay, khối óc của họ tạo ra và được xã hội ghi nhận chứ không phải từ sự ban ơn của ai, bởi ơn nghĩa cũng giống như món nợ về mặt tinh thần, là điều những người tự trọng không mong muốn. Chính vì vậy, xã hội Bình đẳng Đạo đức không yêu cầu ai phải mang ơn ai, mà cố gắng tìm kiếm và tôn vinh những dạng tài năng khác nhau, tạo điều kiện để cho càng nhiều người có cơ hội đóng góp cho xã hội càng tốt. Ngược lại, những người được hưởng nhiều quyền lực, bổng lộc từ xã hội cũng cần phải cảm thông với những người khác, bất đắc dĩ phải tham gia vào cuộc đời này với những bất lợi bẩm sinh hoặc bất lợi do xã hội đem lại.

Ở phương đông, công dân đã được giáo dục về Bình đẳng về Luật Pháp. Bình Đẳng về Đạo Đức là khái niệm rộng hơn, đòi hỏi người dân có nghĩa vụ tôn trọng lẫn nhau, cố gắng tư duy và đối xử một cách công bằng. Nghĩa là, nếu bạn khiến người khác phiền muộn bởi những hành vi không tôn trọng họ hoặc cho rằng họ không cao quý, không giá trị bằng người nọ người kia, thì cũng không ai bỏ tù bạn. Nhưng bạn cần ý thức rằng điều đó là vi phạm đạo đức. Bình đẳng Đạo đức không có nghĩa là cào bằng. Những người tài năng hơn vẫn có thể có nhiều của cải vật chất hơn, công việc ưng ý hơn. Nhưng trong phép xã giao nơi công cộng, tất cả mọi người đều đáng được trân trọng như nhau.

Vẫn còn một câu hỏi đặt ra: “Có những người nhất định không tin rằng mình bình đẳng với một ai đó, do ngưỡng mộ, cảm phục; hoặc giống như trẻ vị thành niên, họ cần những hình mẫu lý tưởng để noi theo?” Những người này được quyền từ chối quyền bình đẳng của họ, nhưng họ cần hiểu rằng nhiều người khác trong xã hội cũng có quyền không nghĩ giống họ. Xây dựng những hình mẫu để định hướng mục đích sống cho thế hệ teen cũng là điều đáng bàn. Ở quốc gia nào cũng vậy, số lượng người không theo đuổi một chuyên môn hay có đam mê đặc biệt nào bao giờ cũng chiếm đa số. Những người này cần được định hướng vào các công việc giúp đỡ cộng đồng, và cần có những hình mẫu là những người hoạt động xã hội. Nhiều người cho rằng xã hội Việt nam còn nghèo cho nên tính nhân văn và cộng đồng cũng yếu kém. Cuối thế kỷ 19, mức sống trung bình của người dân Mỹ cũng thấp như ở Việt nam hiện nay. Tuy nhiên điều tra xã hội thời đó cho thấy, trong số 10 người được trẻ vị thành niên mong muốn phấn đấu noi theo nhất có Clara Barton, nữ giáo viên, hộ lý và là người sáng lập ra Tổ chức chữ thập đỏ Mỹ, và Annie Sullivan, một nữ giáo viên giành cả đời để giáo dục người khuyết tật.(3)

Ngày nay, niên lịch những ngày kỷ niệm quốc gia chính thức (public holidays) của Mỹ chỉ có ba ngày mang tên các danh nhân: (i) Ngày Colombus, người khám phá ra châu Mỹ, (ii) Ngày Martin L. King, nhà hoạt động nhân quyền người da đen, (iii) và Ngày Washington, tổng thống đầu tiên của Mỹ. (Ngày Washington cũng đang dần mất đi, thay bằng Ngày Tổng thống để kỷ niệm chung cho tất cả các đời tổng thống Mỹ). Một xã hội mà tính nhân văn, cộng đồng được đề cao, sẽ hỗ trợ mạnh mẽ cho các hoạt động quản lý và dẫn đến thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển. Tôi cho rằng trước nay giáo dục nhân văn ở Việt nam không mấy thành công là do hệ thống truyền thông ở nước ta không tuyên truyền đủ mức hoặc chưa thực tâm coi trọng những người sống vì cộng đồng ngang bằng những người thành đạt trong giới chính trị gia, quân sự gia, doanh nhân, văn nghệ sỹ và khoa học gia. Giới trẻ ngưỡng mộ những người thành đạt, nhưng đa số họ không có những tố chất và đam mê cần thiết để trở thành những người như thế, và do đó họ hoang mang, mất định hướng, chán đời. Tôi cho rằng, các tổ chức truyền thông và phát triển văn hoá nên thường xuyên điều tra, công bố các thống kê về biểu tượng xã hội, đầu tư nhiều hơn vào xây dựng những bộ sách về Những Tấm lòng Cao cả để dần dần điều chỉnh các hình mẫu của cộng đồng. Những hình mẫu này không nhất thiết phải là những anh hùng, phải hi sinh quá nhiều cho người khác, mà chỉ cần có những hành động nhân văn hơn mức bình thường một chút để cho người dân có thể làm theo. Đầu tư mạnh tiền của và công sức tôn vinh những hình mẫu cụ thể bằng xương bằng thịt sẽ có hiệu quả cao hơn gấp nhiều lần những bài giảng đạo đức thuần túy.

Bình Đẳng Đạo Đức đã trở thành một giá trị phổ quát ở các quốc gia văn minh nhưng còn thiếu trong triết lý phát triển của xã hội Việt nam. Tôi hi vọng rằng những người có tâm huyết với xã hội sẽ quan tâm đầu tư nhiều hơn để nâng cao dân trí về vấn đề này.

(1)http://plato.stanford.edu/entries/equality/
(2) “A theory of Justice”. John Rawls, 1971, 1999.
(3) “What price fame?” Tyler Cowen.

LinkedInPinterestCập nhật lúc:

Nội dung liên quan

  • Định chuẩn bằng những giá trị phổ quát

    25/05/2015Giáp Văn DươngSử dụng những giá trị phổ quát làm thang giá trị chủ đạo sẽ giảm được sự phức tạp trong quá trình định chuẩn và tránh được những hậu quả khôn lường do chọn phải những thang giá trị lạc hậu làm chuẩn cho xã hội...
  • Thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay, mâu thuẫn và phương pháp giải quyết

    09/08/2019Nguyễn Tấn HùngThực hiện công bằng xã hội đòi hỏi phải nhận thức và giải quyết đúng đắn, hài hoà các mối quan hệ lợi ích. Song, ở đây lại thường nảy sinh những mâu thuẫn đòi hỏi phải được nghiên cứa và giải quyết. Đó là các vấn đề: 1) Mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội, 2) Mâu thuẫn giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội của Nhà nước, 3) Mâu thuẫn giữa lợi ích nhà đầu tư và lợi ích người lao động, 4) Mâu thuẫn trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo.
  • Một không gian tự do cho sự phát triển của cá nhân

    02/10/2017Nguyễn Văn TrọngChủ tịch Hồ Chí Minh đã mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập bằng lời bất hủ : "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Suốt hơn nửa thế kỷ qua mọi người chúng ta đều chân thành xúc động khi đọc những lời hào hùng này...
  • Từ quốc khánh Mỹ nghĩ về sức mạnh Việt Nam

    04/07/2016Hiệu Minh (từ Mỹ)Hòa bình đã qua mấy thập kỷ. Đã lúc nào chúng ta tự hỏi, sức mạnh năm xưa có còn không? Và giá trị thời đại của Việt Nam bây giờ là gì trong thế giới toàn cầu hóa này? Sức mạnh đoàn kết ấy ở đâu. Mấy chục năm qua, có ai dám đặt lên vai trọng trách quốc gia cho tuổi trẻ như Cụ Hồ đã từng tin chàng trai Nguyễn Hữu Đang khi xây dựng lễ đài Ba Đình.
  • Luật Doanh nghiệp - "con dao sắc ngọt" giải phẫu các tập đoàn kinh tế

    17/09/2014Luật sư Nguyễn Trần BạtTừ thời điểm 1/7/2010, các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước được chuyển đổi thành các công ty TNHH một thành viên, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Đây là một sự kiện pháp lý quan trọng, theo cam kết khi gia nhập WTO, đánh dấu một bước tiến mới trên lộ trình hội nhập của Việt Nam. Tuy nhiên, trước và sau sự kiện quan trọng này có nhiều việc cần bàn...
  • Tìm hiểu về khái niệm nhà nước pháp quyền tại Đức

    16/09/2014Đỗ Kim ThêmĐể khởi đầu cho công cuộc đổi mới về kinh tế, Việt Nam đã đề cao hai khái niệm quan trọng, nhà nước pháp quyền và kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho đến nay, hai khái niệm này dù đã được triển khai nhưng vẫn chưa giải đáp thỏa đáng như nhiều người mong đợi. Đây là một nan đề cần được đặt ra và thảo luận nghiêm chỉnh hơn. Vấn đề mà giới học thuật luôn quan tâm theo dõi là Việt Nam cần phải hiểu thế nào về hai khái niệm này.
  • Nền Dân Trị Mỹ

    11/02/2011Nền dân trị hứa hẹn được những gì cho tương lai là tuỳ thuộc vào yếu tố quyết định: tinh thần trách nhiệm của các công dân đối với cộng đồng. Từ đó, ông đặt ra hàng loạt vấn đề còn nóng bỏng tính thời sự:
    - Nên mạnh dạn thực hiện nền dân trị đến đâu?
    - Làm thế nào để hợp nhất sự tham gia của toàn dân với thể chế chính trị đại diện?
  • Tư cách và đạo đức cách mạng

    14/01/2011X.Y.Z

    1 Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng.
    2. Cán bộ của Đảng phải hiểu biết lý luận cách mạng, và lý luận cùng thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau.

  • Sự bình đẳng của con người

    16/12/2010Tuyên ngôn nước Mỹ nói rằng tất cả con người sinh ra đều bình đẳng. Làm thế nào mà những tác giả được cho là thông thái của văn kiện này lại có thể viết ra điều quá vô nghĩa như thế? Hãy nhìn quanh bạn xem! Aga Khan(1) và một tá điền da đen miền Nam có được sinh ra bình đẳng không?
  • Hiến pháp 1946 với tư tưởng pháp quyền

    10/05/2010Nguyễn Sĩ Dũng60 năm đã trôi qua kể từ mùa thu năm ấy. Sống mãi với thời gian là các giá trị của Cách mạng tháng Tám: độc lập, tự do, dân chủ. Sống mãi với thời gian là tư tưởng pháp quyền kết tinh trong bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Bản hiến pháp đó còn được gọi là Hiến pháp 1946.
  • Vai trò của bất bình đẳng kinh tế, ghen tị và thiếu thốn tương đối trong phát triển bền vững tại Việt Nam*

    02/12/2009Trần Nam BìnhBài viết này tập trung vào góc cạnh phân phối thu nhập của phát triển bền vững. Cụ thể hơn, bài viết xem xét vai trò của chênh lệch/bất bình đẳng kinh tế, lòng ghen tỵ và thiếu thốn tương đối phát triển bền vững tại Việt Nam.
  • Bất bình đẳng chuyện "cơm phở"

    12/04/2009Ngọc LanGiữa đàn ông và phụ nữ, ai thường viện cớ chán "cơm" thèm "phở" nhiều hơn? Khi cả hai cùng đi ăn "phở", đàn ông có nhìn người phụ nữ của mình dưới con mắt bình đẳng không? Thưa rằng: Hầu hết đàn ông vẫn ôm khư khư quan niệm cho mình cái quyền "đi ngang về tắt" một chút còn vợ thì đừng có mơ.
  • Đối mặt với nữ quyền

    06/03/2009Chung Nhi thực hiệnMột người phụ nữ đẹp nói về quyền phụ nữ để đàn ông nghe. Có vẻ như là một sự quá đỗi bình thường. Bình thường đến độ, có thể, đàn ông sẽ tặc lưỡi, lại là chuyện đàn bà đòi quyền lợi. Hoặc giả là, gớm chết những bà, những cô, suốt ngày nhảy tưng tưng lên đòi đấu tranh, đòi bình đẳng giới. Chả ra cái thể thống gì, đàn bà cứ học đòi giống đàn ông... Nhưng hình như người đàn bà này có khác.
  • Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên Hợp Quốc (*)

    08/12/2008Ngày 10 – 12 – 1948, Liên Hợp quốc công bố bản Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền. Bản Tuyên Ngôn thể hiện các khát vọng và mục tiêu hướng tới của toàn nhân loại đã được nhà nước Việt Nam long trọng cam kết thực hiện.
  • Triết lý giáo dục bình đẳng, vì con người

    26/02/2008GS. Phan Đình DiệuVới nguồn kinh phí hiện nay, nếu biết chắt chiu chi tiêu theo kiểu "con nhà nghèo" thì VN hoàn toàn có thể miễn học phí đối với các cấp học phổ cập và giảm dần tiến đến bỏ học phí ở các cấp THPT và ĐH để xây dựng một nền giáo dục bình đẳng, vì con người. Đồng thời, cần có sự điều chỉnh chương trình để hướng tới đào tạo những HS có năng lực đọc hiểu, khả năng tư duy toán học, khả năng hiểu biết và vận dụng kiến thức khoa học, và năng lực xử lý tình huống chứ không chỉ biết học thuộc lòng...
  • Khảo luận thứ hai về chính quyền - Chính quyền dân sự

    22/07/2007Tùng ThưLà một trong những danh tác chính trị thế giới, cuốn sách này vừa tiếp nối dòng chảy liên tục của tư tưởng nhân loại về phạm trù “nhà nước”, “quyền lực” từ thời Hy Lạp - La Mã cổ đại đến thời Phục hưng, vừa góp phần tạo tiền đề trực tiếp cho trào lưu Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII và ghi dấu ấn rõ nét trong tư duy và hành động của các nhà lập quốc Mỹ sau này...
  • Tự do sinh ra con người

    21/04/2007Nguyễn Trần Bạt- Chủ tịch/ Tổng Giám đốc InvestConsult GroupKhái niệm tự do gắn với khái niệm con người. Trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại, hai khái niệm này tạo thành một mối quan hệ cực kỳ mật thiết, quan hệ biện chứng và phát triển. Thế nhưng không chỉ khái niệm tự do mà khái niệm con người từ trước đến nay vẫn chưa được nhận thức một cách đầy đủ và chưa được hiểu một cách nhất quán.
  • Thành tâm và bình đẳng trong đối thoại

    24/03/2007Nguyễn Quang ThânLần đầu tiên ở nước ta, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đối thoại trực tiếp và công khai với QuốcHội với dân chúng. Kết quả do những cuộc đối thoại ấy chưa biết ngay được. Đối thoại vẫnlà một nghệ thuật cần phải học hỏi. Nhưng là chuyện lần đầu tiên có ở nước ta nêncó thể nói đó là một biểu hiện rất đáng mừng...
  • Giải quyết mâu thuẫn nhằm thực hiện tốt việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta

    17/06/2006Nguyễn Tấn HùngVấn đề kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là vấn đề vô cùng phức tạp, đòi hỏi không chỉ cần nắm vững mối quan hệ qua lại giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, mà còn cần phải nhận thức và giải quyết tốt những mâu thuẫn nảy sinh trong quan hệ giữa chúng...
  • Khía cạnh triết học trong các giá trị phổ quát của dân chủ

    24/11/2005Đỗ Trung HiếuTất cả những chủ thuyết và lý tưởng Sống chỉ đáng theo, đáng thực hành khi chúng nhân danh con người và phụng sự con người, khi chúng hợp lý, hợp quy luật, hợp với lẽ phải (chân), hợp với nhân tính (thiện), hợp với khát vọng về sự hài hoà và những tình cảm cao thượng của con người (mỹ). Dân chủ chính là một học thuyết đáp ứng được các tiêu chí đó. Nó chẳng những cổ vũ cho những giá trị chân, thiện, mỹ trong đời sống cá nhân và cộng đồng, mà còn chỉ ra những cách thức thực hành những giá trị đó...
  • Kinh Tế thị trường và Xã hội Công dân như một Hệ thống: Trường hợp Việt Nam

    22/11/2005Vũ Quang Việt, Ph.d. kinh tế, New York UniversityBài viết này thử nhìn kinh tế thị trường và xã hội công dân như một hệ thống và điểm lại tình hình Việt Nam qua một số kết quả nghiên cứu của tác giả về kinh tế Việt Nam đã xuất bản hoặc mới chỉ phổ biến hạn hẹp trong vòng bạn bè...
  • Vang vọng muôn đời

    26/10/2005TS. Nguyễn Sĩ Dũng"Hỡi đồng bào,Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”...
  • Sự bình đẳng giới tính

    02/08/2005Ngay cả trong Vườn Địa đàng, phụ nữ cũng chỉ là người phụ trợ của người đàn ông, và rõ ràng họ bị đặt dưới quyền cai trị của đàn ông vào lúc bị trục xuất khỏi Vườn Địa đàng. Thánh Paul ra lệnh phụ nữ phải phục tùng chồng họ và áp đặt sự im lặng cùng tính thụ động lên họ trong những vấn đề thuộc học thuyết và hệ thống lãnh đạo Giáo hội. ...
  • "Chúng ta nhất trí với nhau dễ dàng quá!"

    09/07/2005TS Lê Đăng Doanh“Chúng ta nhất trí với nhau nhiều quá và dễ dàng quá!”, giáo Sư Robert Wade nổi tiếng của Đại học Kinh tế London lừng danh đã thốt lên như thế trong phiên bế mạc hội thảo tổng kết 20 năm đổi mới hôm 1/7/2005 vừa qua.
  • xem toàn bộ